Tranh làng Sình: Nét văn hóa dân gian đặc sắc xứ Huế

Nếu Kinh Bắc nổi danh với tranh dân gian Đông Hồ và Thăng Long - Hà Nội vang tiếng với tranh Hàng Trống, thì miền Trung gió Lào cát trắng lừng danh với tranh dân gian làng Sình.

Làng Sình tên Nôm là làng Lại Ân, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10 km nằm bên bờ sông Hương của xứ Huế mộng mơ. Và bên kia sông là cảng Thanh Hà nổi tiếng từ thời các vua chúa Nguyễn, còn có tên Phố Lở. Cạnh đó là phố Bao Vinh, một trung tâm mua bán sầm uất, cận kề với đô thành Huế. Đây là một trung tâm văn hóa của vùng cố đô.

Tranh tứ bình, làng Sình (Ảnh tư liệu)

Từ thế kỷ XVI đã được Dương Văn An nhắc đến trong Ô Châu cận lục như một điểm giao thương nhộn nhjp: “Cầu Bao Vinh ngựa xe tấp nập, làng Lại An tiếng gà gáy sáng giục khách thương tài lợi cạnh tranh …” hay “Xóm Lại An gà xào xạc/ Giục khách thương mua một bán mười”. Làng Sình nằm cạnh ngã ba sông, nơi sông Hương hợp lưu với sông Bồ, trước khi đổ nước vào phá Tam Giang. Lang Sình được hình thành khá sớm ở xứ Đàng Trong (thời Trịnh - Nguyễn phân tranh).

Nói đến cái tên “Sình” có nhiều cách giải thích khác nhau. Có người cho rằng đó là dấu ấn Chăm còn sót lại như: làng Truồi, Sịa, Ô Lâu… Còn xuất phát từ lịch sử thì có người lại giải thích: “Sình” là biến âm  của chữ Hình - một thế võ của làng. Hoặc Sình là tên một ngôi chợ nổi tiếng của làng.

Điểm nổi bật nhất của làng Sình là nghề làm tranh dân gian. Theo các cụ bô lão, từ xa xưa cha ông đã truyền lại rằng; tranh làng Sình có nguồn gốc tương tự tranh Đông Hồ Kinh Bắc, tranh Hàng Trống Hà Thành. Tranh làng Sình không chỉ đạt giá trị cao về nghệ thuật tạo hình tranh dân gian, mà nó còn gắn với chức năng tâm linh của xứ Huế thơ mộng. Đề tài tranh làng Sình chủ yếu phản ánh tín ngưỡng cổ xưa. Ngoài các đề tài thờ cùng, còn có tranh tố nữ tranh sinh hoạt đời sống thường nhật.

Theo truyền thuyết kể rằng: Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, trong đoàn người tìm vào đất Thuận Hóa (Huế), định cư có ông Kỳ Hữu Hòa, mang theo nghề làm tranh giấy, in mộc bản của làng quê mình để mưu sinh và từ đó tranh làng Sình ra đời.

Huế là xứ sở của nhiều tính ngưỡng văn hóa dân gian như lễ thờ cùng tổ tiên, lễ kỵ giỗ, lễ cúng “bất đắc kỳ tử”, lễ tảo mộ, lễ cùng gia tiên, lễ thờ thần cửa ngõ… Chính vì đặc điểm này mà tranh làng Sình có cơ sở phát triển lâu dài với các đề tài tâm linh thờ cùng.

Tranh dân gian làng Sình là một loại tranh in rời từng tờ một, theo khuôn khổ bản khắc làm bằng gỗ thị, gỗ mít để tạo đường nét đen trắng của tranh. Sau khi in nét xong, nghệ nhân tô mầu lại bằng những gam mầu được chế tác từ vỏ sò điệp. Màu được chế tác từ lá cây, tro rơm, gạch. Về in nét và tô màu giống tranh Hàng Trồng, Hà Nội (in nét trước, tô màu sau).

Nghệ nhân Hữu Phước đang chế tác bản khắc (Ảnh tư liệu)

Hầu hết các công đoạn từ tạo khuôn (bản khắc), in ấn, tô mầu đều làm bằng thủ công - có tất cả 7 bước để tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh: xén giấy, quét điệp, in tranh trên mộc bản, phơi tranh, pha mầu, tô mầu và cuối cùng là điểm nhấn.

Giấy in tranh là loại giấy dó, có loại giấy khổ to giống giấy in báo. Các nghệ nhân phải dùng dao chuyên dụng để cắt giấy thành nhiều khổ khác nhau, phù hợp với từng khổ tranh.

Quét điệp là khâu rất quan trọng để tạo nên sự khác biệt của bức tranh làng Sình với các loại tranh khác. Đế có điệp, người dân làng Sình phải đi thuyền dọc phá Tam Giang, đến đầm Cầu Hai để cào điệp. Đây là loại vỏ sò mỏng có nhiều mầu óng ánh. Vỏ điệp được giã thành bột, trộn với hồ loảng. Dùng hỗn hợp này bôi hai lần đều lên giấy dó. Nhờ vậy, khi nhìn vào bức tranh ta sẽ thấy một lớp mầu óng ánh ngọc trai của vỏ sò, sờ tay lên  cảm thấy sần sùi, thô ráp. Đây là sự khác biệt tạo nên vẻ đẹp riêng của tranh làng Sình.

Khi lớp điệp đã khô, nghệ nhân tiền hành in nét tranh trên mộc bản. Mộc bản là những khuôn tranh được khắc chạm từ trước, với nhiều hình thù (đường nét của các hình) và kích thước khác nhau. Mộc bản có nhiều loại gồm 40 – 50 tấm.

Loại mực in vô cùng đặc biệt. Mầu đen: đốt rơm nếp thành tro, được hòa vào nước, lọc lấy nước sạch, đem nấu cô lại thành mực đặc sệt.

Một số tranh làng Sình (Ảnh tư liệu)

Sau đó nghệ nhân đặt tấm ván in xuống mặt đất, dùng chổi (làm bằng xác dừa) quét mực đen lên ván in nét, tiếp theo lấy giấy đã quét điệp úp chồng lên mặt bản khắc, dùng chổi (làm bằng xơ mướp) xoa đều lên mặt giấy. Sau đó bóc giấy ra đem phơi khô nơi thoáng mát.

Công đoạn tô mầu lên tranh là khâu đòi hỏi sự khéo léo và năng khiếu mỹ thuật của nghệ nhân. Để làm công đoạn này, trước tiên phải pha mầu mầu. Cụ thể, mầu tím: làm từ quả mùng tơi chín, giã lấy nước rồi nấu cô lại đặc sệt. Màu vàng lấy hoa hòe, hay lá cây đung hoặc hoa giành giành. Màu lục pha chế từ cây môi hoặc cây bông ngọt. Mầu vàng cam làm từ bột gạch mục. Bút tô mầu, có hai loại: bút to và bút nhỏ.

Sau khi đầy đủ vật tư (các loại mầu), dụng cụ bút, giấy điệp… nghệ sỹ bắt đầu tô mầu theo chủ đề từng bức tranh. Mầu sắc hiện dần rất tươi tắn, khác hẵn với các loại mầu vô cơ (chế tác từ hóa chất).

Chủ đề tranh dân gian làng Sình gồm ba nhóm chính: Tranh nhân vật, tranh sức vật và tranh đồ vật.

Tranh nhân vật gồm các loại: Tượng Bà, tượng Bếp, con ảnh, ông Điếu, ông Đốc…

Tượng Bà là những bức tranh thờ trên những chiếc trang bà, treo trên xà nhà, gọi là trang bổn mạng. Bà sẽ là người giúp đỡ và giải hạn cho nữ gia chủ. Bà bổn mạng trên tranh làng Sình thường được thể hiện trong hình tượng của một nữ nhân cưỡi voi, ở trong một khung hình chữ nhật, phía sau có 2 thị nữ cầm quạt đứng hầu hoặc chỉ cưỡi voi và có thị nữ hầu cận hay ngồi trên một đài cao.

Tượng Bếp (còn gọi tờ bếp) là những bức tranh in hình 3 người ngồi trên trang bếp  là bà Thổ Kỳ và hai ông Thổ công  và Thổ địa, xung quanh là hình các khí dụng, vật phẩm, kẻ hầu người hạ.

Con ảnh: là những “tờ thế mạng”, gồm ảnh xiêm in hình người đàn ông hoặc đàn bà  để cầu đảo thế mạng cho người lớn và ảnh phền in hình bé trai hoặc bé gái để  thế mạng  cho trẻ em.  Ngoài ra còn có bộ tranh thờ thần để cầu an cho mọi người, như ông Địệu, ông Đốc, bà Thủy…

Bản khắc tranh làng Sình (Ảnh tư liệu)

Tranh súc vật  là tranh in hình 12 con vật cầm tinh cho thập nhị địa chi trong Âm lịch gồm: Tý (chuột), Sửu (trâu), Mão (mèo), Thìn (rắn), Tỵ (rắn), Ngọ (ngựa), Mùi (dê), Thân (khỉ), Dậu (gà), Tuất (chó) Hợi (lợn, heo). Tranh in hình các loài gia sức: trâu, ngựa, heo, dê.. dùng để cúng tế hoặc treo trong các chuồng trại chăn nuôi  gia súc, để cầu cho vật nuuôi tránh được dịch bệnh, phát triển đầy đàn; tranh có in hình linh thú như voi cọp (hổ) để dâng cùng ở các miếu, nhằm tỏ lòng thành kính của con người với các loài mãnh thú và cầu mong các mãnh thú này không giáng họa cho con người.

Tranh đồ vật là những bức tranh in hình các loại áo quần, khí cụ, cung tên, hoặc các loại tế phẩm như áo ông, áo bà, áo binh có in hoa văn trang trí.

Tranh dân gian làng Sình mang nhiều ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn và lưu giữ những làng nghề dân gian nổi tiếng. Đối với ngươi dân làng Sình đây là một nét văn hóa đẹp của cha ông để lại mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng.Tranh làng Sình là một dòng tranh chính phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của người dân xứ Huế đã có từ bao đời nay. Nó xuất hiện trong các dịp cúng bái. Sau khi cùng xong sẽ được đốt, hóa cho ông bà tổ tiên.

Xưa kia nhu cầu sử dụng tranh làng Sình rất lớn, nhưng trải qua những thăng trầm lịch sử, tranh làng Sình dân dần bị mai một. Nhất là sau năm 1945, chiến tranh diễn ra liên miên, không mấy ai  để ý đến chuyện thờ cúng cho đúng với truyền thống, lễ nghi. Do đó, tranh làng Sình sản xuất ra không ai mua. Nhiều nghệ nhân phải bỏ nghề. Nhiều khuôn bản mộc để in tranh xưa, đã thất lạc dần theo sự mai một của làng nghề. Rất khó tìm lại được những bản mộc xưa.

Ngày nay đất nước phát triển, người dân lao vào vòng xoáy mưu sinh, không mấy người còn giữ tục lệ thờ cùng với tranh làng Sình. Nền kinh tế thị trường xâm nhập sâu rộng, người dân Huế cũng dần quên đi mình đã từng có một tín ngưỡng, một truyền thống tốt đẹp. Nghề tranh làng Sình thật sự đã thất truyền.

Năm 1996, Nhà nước ta có chủ trương phục hồi lại những nghề truyền thống, trong đó có nghề tranh dân gian làng Sình. Tuy nhiên cho tới nay nghề làm tranh làng Sình chỉ còn duy nhất một nghệ nhân là ông Kỳ Hữu Phước.

Năm 2007, tranh dân gian làng Sình được tôn vinh như một di sản văn hóa của dân tộc cần được giữ gìn và bảo tồn. Cùng với sự quan tâm của Nhà nước và sự phát triển của loại hình du lịch văn hóa làng nghề đã tạo điều kiện hồi sinh cho tranh làng Sình. Tranh làng Sình giờ đây dần dần lấy lại được hình ảnh và vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của một làng tranh truyền thống.

Trần Mạnh Thường

Link nội dung: https://arttimes.vn/my-thuat/tranh-lang-sinh-net-van-hoa-dan-gian-dac-sac-xu-hue-c15a6284.html