Khúc Hồng Thiện - Lục bát truyền thống mang hơi thở đương đại

Khi nhà thơ Khúc Hồng Thiện vừa xuất bản “Minh Đạo Sách” (Nhà xuất bản Nghệ An, 12/2024), tôi cứ nghĩ đó là tập sách về nghiên cứu triết học. “Minh” là từ Hán Việt có nghĩa là sáng rõ, thông suốt; “đạo” cũng là từ Hán Việt, biểu thị con đường, lẽ phải, nguyên lý hoặc chân lý. Vậy thì “Minh Đạo Sách”, phải chăng đó là một “tuyên ngôn” của nhà thơ trẻ?

Bài thơ Minh đạo sách được tác giả xếp ở vị trí cuối cùng, được dùng làm tên chung cho tập thơ. Thường người giữ vị trí “vedette” trong một show thời trang phải tạo nên một màn kết thúc thật đẹp mắt và ấn tượng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng khán giả. Phải chăng, Khúc Hồng Thiện đã giao cho Minh đạo sách sứ mệnh “vedette” của cả tập thơ Minh Đạo Sách?

Khúc Hồng Thiện - Lục bát truyền thống mang hơi thở đương đại - 1

Tập thơ “Minh Đạo Sách”.

Đây là một bài thơ song thất lục bát, gồm sáu khổ, chứa đựng những suy tư về lịch sử dựng nước và giữ nước, tự hào về giang sơn gấm góc, truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, nhận thức về thời cuộc trong một thế giới đa biến và thông điệp của tác giả về con đường làm giàu tri thức, con đường khai sáng.

“Quyết tìm sách minh đường học đạo/ các thiền nhân cùng dạo bước chung/ dù cho thủy tận sơn cùng/ ta đi với một tấm lòng trung trinh”. Không chỉ trung trinh, đó là tấm lòng đẹp. Cách chuyển tải thông điệp của tác giả gây ngạc nhiên, thủ thỉ, chân tình, trên “nôi truyền thống”. Và, như thế Minh Đạo Sách vẫn cứ là “huyền thư” phải đi tìm, ở phía/thuộc về tương lai. 

Nẻo về minh đạo (bài thơ thứ hai có hai chữ “minh đạo”) là bài thơ theo thể ngũ ngôn, giai điệu đồng dao gần gũi cho phép phổ tải những suy tư của tác giả: “Đó là con đường sáng/ để mọi người cùng đi/ nhân văn và minh triết/ dù ta không nói gì”. “Thế nào là minh đạo?”, nhà thơ Khúc Hồng Thiện tự vấn từ quan hệ giữa người với người, về đời sống vật chất, giá trị tinh thần: “Ôi trần gian mộng mị/ mỗi người chỉ một đời/ đã cùng nhau hoạn nạn/ sao bây giờ xa xôi?” (Nẻo về minh đạo). Câu hỏi nhẹ nhàng nhưng ám ảnh.

*

Trong Minh Đạo Sách có 42/68 bài lục bát, chiếm gần 62%. Tỷ lệ này cho thấy, Minh Đạo Sách gần như là tập thơ lục bát; hay nói cách khác, lục bát là thể thơ chủ đạo của Minh Đạo Sách.

Chủ đề của tập thơ cũng đa dạng, từ gần đến xa, từ nhà ra ngõ, từ quê hương đến đất nước; từ hiện thực đến tâm linh, siêu thực. Tên thi phẩm ở nhiều bài ngỡ như cụ thể nhưng lại là một bài thơ mang đậm dấu ấn siêu thực. “Tích chèo chênh chao bước ra/ Người đi từ độ cùng ta nhân từ/ Linh ơi non nước hải hồ/ Nhập trong tiếng mõ nam-mô mà hành” (Tự họa). 

“Linh” trong bài thơ tứ tuyệt/ lục bát này là nhân vật có thật hay là gì? Chắc chắn không phải. “Linh” ở đây có thể hiểu là “linh nghiệm” - điều rút ra qua biến đổi, thăng trầm, dâu bể. Như vậy, trong bài thơ tưởng như giản đơn Tự họa vẽ mình, đã cho thấy Khúc Hồng Thiện làm cho cái đơn giản biến ảo thành cái phức tạp. Đó là một đặc trưng của thơ siêu thực.

Khúc Hồng Thiện - Lục bát truyền thống mang hơi thở đương đại - 2

Nhà thơ Khúc Hồng Thiện.

Các bài lục bát như Còn thức trong mơ, Gửi tóc mây, Chênh chao tích chèo, Mưa rửa đền, Nhận, Ở phía con người, Tôi xin an táng, Trong nhung, Trang trắng... đều mang dấu ấn đậm nét của văn chương siêu thực. Vì thế, tạo nên trường ám ảnh, dư ba.

Thực tế thì thơ siêu thực có nguồn gốc từ châu Âu đã được các nhà thơ Việt Nam “Việt hóa” một cách khá ngoạn mục. Thể lục bát truyền thống đã được Khúc Hồng Thiện sử dụng làm cái vỏ hình thức cho sự hình thành các hình ảnh thơ siêu thực một cách uyển chuyển.

42 bài lục bát ở tập Minh Đạo Sách có nhiều chủ đề, từ hiện thực đời sống, gia đình, trường học, lịch sử, quê hương, đất nước; trong đó có cả thơ về đề tài biển đảo với nhiều khắc khoải: “Anh về trước biển vu vơ/ Nhìn ra phía sóng bao giờ cho yên?/ Người đi từ phía biển hiền/ Mang theo vị mặn một miền thâm u” (Trước biển). Trong tập thơ còn có bài Lục bát đảo chìm, Sóng gió Trường Sa (thơ năm chữ), Lòng dân như sóng (thơ tự do).

Phía sóng bao giờ cho yên?, không chỉ là bão bùng, bất thần, những cơn giận giữ của đại dương thời biến đổi khí hậu, trôi dạt lục địa... mà xa hơn, sau ẩn dụ “phía sóng” ấy, sau hai con chữ ấy là câu hỏi về những vấn đề thời đại, địa chính trị biển. “Mịt mùng bao cuộc bể dâu/ người xưa dong cánh buồm nâu quan hà/ mưa nguồn, chớp bể đảo xa/ nghe trong gió lộng vẫn là tiếng quê” (Lục bát đảo chìm).

Hiện nay, chúng ta đang huy động nguồn lực, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao hơn nữa năng lực thực thi và bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển, thực hiện Luật biển Việt Nam (năm 2012), Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các nội dung liên quan trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, tăng cường hợp tác quốc tế về biển phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

Biển đảo Việt Nam không chỉ là câu chuyện trong nước; trên nghị trường quốc tế, Việt Nam cùng các nước ASEAN đang thực hiện “Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông”. Theo đó, cùng với cam kết thực hiện đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC, Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) - đây là nhân tố quan trọng đảm bảo an ninh, ổn định cho khu vực. Chỉ có như thế “phía sóng” mới yên.

 “Vấn đề lớn nhất mà Khúc Hồng Thiện đề cập đến chính là các vấn đề văn hóa của người Việt, sự mai một, sự đang mất đi hay đứng trước những vấn đề thách thức của đời sống hiện đại này như câu thơ lục bát ấy: đẹp, nhuần nhuyễn, tinh tế nhưng lại mang giọng nói của chính thời đại anh đang sống” (Nguyễn Quang Thiều: Lời giới thiệu).

Có thể thấy điều này qua Lúa trên sân Văn Miếu, Dòng sông nào, À ơi, câu hát, Ở phía con người, Tôi xin an táng... Khúc Hồng Thiện nói về những vấn đề của xã hội đương đại, con người hôm nay bằng tinh thần, sự tinh tế của lục bát. Những “câu hỏi lục bát” của Khúc Hồng Thiện gây bất ngờ cho người đọc thể thơ truyền thống qua sáng tác của anh.

“Đời con rồi sẽ thế nào/ Khi sông ngưng chảy khi ao lấp rồi/ Bao nhiêu rừng trọc hóa đồi/ Phù sa và những lở bồi cũng không” (Dòng sông nào). Trong bài thơ này, hai câu cuối bật lên những bất ngờ, ám ảnh: “Những ai ăn mặn cánh đồng / Có nghe sầm sập ngàn sông xối về”. Chúng ta phải tôn trọng quy luật “Tất cả các dòng sông đều chảy”, phát triển xanh, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn... nếu muốn bền vững.

Khúc Hồng Thiện có “đôi mắt thơ” tinh tế, bàn xưa gửi thông điệp đến nay nhuần nhuyễn khi anh dùng tích cổ, các nhân vật lịch sử, nhân vật văn học trong lục bát. Dễ dàng nhận ra qua Sóng đôi một đoạn với Kiều, Kiều nhi, Đêm vớt Kiều, Mưa rửa đền, Nhận, Lúa trên sân Văn Miếu...

Nhìn hàng bia tiến sĩ ở Văn Miếu, Khúc Hồng Thiện suy tư: “Còn bao góc khuất triều đình/ lấp sau rêu đá chình ình ngàn năm/ thế rồi vằng vặc trăng rằm/ soi tên người sáng, tối vằm mặt kia”. Câu kết của bài thơ thật bất ngờ: “Trên sân Văn Miếu, ô kìa/ bóng người trồng lúa, xong, đi nhẹ nhàng”. 

Mỗi bài thơ lục bát của Khúc Hồng Thiện đọc xong đều ngân lên những câu hỏi, đa chiều. Phải ghi nhận ở đó có những suy nghĩ khác thường, cảm xúc khác thường và cách lập ngôn rất khác thường. Đó chính là hồn chữ, vân chữ của lục bát Khúc Hồng Thiện.

*

Khúc Hồng Thiện là nhà thơ trẻ, thế hệ 8X. Minh Đạo Sách phác họa rõ hơn “chân dung tâm hồn” của anh. Đọc thơ anh, với ai dẫu chưa gặp gỡ vẫn nhận ra con người ấy hay suy tư, ưu tư và nhiều ngạc nhiên, có chiều sâu, điềm tĩnh. Con người hướng nội nên ngoại cảnh và nội tâm trong thơ anh nhập làm một làm nên “hồn chữ”; hay nói cách khác, Khúc Hồng Thiện dụ được “hồn vía” của nàng Thơ, nhập vào thơ anh.

Lục bát là thể thơ mang đậm tâm hồn, cốt cách Việt, nhưng đến với nhà thơ “Xứ nhãn” Khúc Hồng Thiện lục bát biến hóa, ngôn ngữ thơ nhiều phổ kết hợp, khoái cảm, tạo ra khả năng liên tưởng đa tầng. Anh biết làm mới lục bát trên tinh thần truyền thống. Chỉ riêng điều này, khả tín phồn sinh, nảy nở những điều tưởng cũ, như Khúc Hồng Thiện xác quyết “Trăng tròn trăng khuyết do ta?” (Vân vi).

Ngô Đức Hành

Tô Đông Pha vẽ…thơ!
Tô Đông Pha "vẽ"…thơ!

Chúng ta quá quen với cụm từ "Thi trung hữu họa" (trong thơ có họa). Tuy nhiên, từ "họa" ở đây được hiểu là bức...

Tin liên quan

Tin mới nhất

Trắc nghiệm: Hãy chọn một lá bài để biết nửa kia có thực sự thật lòng, phù hợp với bạn không

Trắc nghiệm: Hãy chọn một lá bài để biết nửa kia có thực sự thật lòng, phù hợp với bạn không

Ai cũng từng thắc mắc: Người mình đang để ý hay đang hẹn hò có thực sự phù hợp hay không? Bài trắc nghiệm này sẽ giúp bạn khám phá mức độ “duyên nợ” với đối phương, tiết lộ những điểm hợp – không hợp, từ mối tình ngọt ngào, lãng mạn đến những thử thách cần vượt qua. Hãy cùng tìm hiểu xem trái tim bạn và người ấy đang hòa hợp đến đâu.