Kỷ niệm Lê Anh Xuân
Tôi và Ca Lê Hiến học cùng trường học sinh miền Nam số 24 do thầy Lê Phú Lộc làm Hiệu trưởng đóng ở khu Mac-ti (cầu Quay) Hải Phòng. Tôi và Hiến sinh cùng năm, cùng trong Ban Chấp hành hiệu đoàn trường và đặc biệt cùng trong tiểu nhóm bích báo của Trường nên rất gần nhau.
Từ ngày ấy chúng tôi đã gọi Hiến là “cây thơ” của trường vì anh làm thơ rất hay và rất mau. Hiến hay làm những bài thơ: Nhớ quê, Nhớ dừa, Mưa, Nhớ sông quê… Mỗi lần sinh hoạt, Ca Lê Hiến đọc lên mọi người đều xúc động, mấy nữ sinh sụt sùi lau nước mắt. Không biết sau này khi trở thành nhà thơ, những bài thơ học sinh thời ấy có được anh giữ lại không?
Chúng tôi ở chung nhau được hai năm thì chia tay vì sự sắp xếp, bố trí của Trường. Về sau Ca Lê Hiến vào Đại học Tổng hợp Hà Nội. Những năm sáu mươi, tôi đọc bài Nhớ cơn mưa quê hương của anh trên Tạp chí Văn nghệ và bài thơ được giải thưởng cao của Tạp chí. Bài thơ này cũng có những tứ từ những bài thơ nhớ quê ở tuổi học trò.
“Cơn mưa nhỏ của quê hương ta đã sống
Nay vỗ lòng ta rung động cả trăm sông,
Ôi cơn mưa quê hương”.
Bài thơ được nhiều cán bộ miền Nam tập kết chép truyền tay nhau đọc.
Sau ngày Ca Lê Hiến đi chiến trường, tôi có đến thăm bác Ca Văn Thỉnh, ba của Hiến ở đường Lý Thường Kiệt, ông cũng là nhà nghiên cứu xã hội nhân văn. Ông cho biết, sau khi học xong đại học, nhà trường giữ anh lại làm giảng viên và Trung ương bố trí anh đi làm nghiên cứu sinh Tiến sĩ ở Liên Xô, nhưng Ca Lê Hiến từ chối. Bác Thỉnh nói: “Thằng Hiến nó nhất quyết không đi học nữa, nó một mực đòi trở lại miền Nam chiến đấu, bác ủng hộ ý nguyện chính đáng của nó”.
Nhà thơ Lê Anh Xuân (trái) và nhà văn Anh Đức (phải) - Ảnh tư liệu
Ca Lê Hiến trở về chiến trường trong lớp những người về Nam sớm. Những năm đó, 1960-1964 đường Trường Sơn còn rất khó đi, phải đi bộ 3-4 tháng ròng mới vào tới Trung ương Cục đóng ở Tây Ninh. Trung ương cử anh về Tiểu ban Giáo dục miền Nam. Nhưng chỉ ít sau Ca Lê Hiến được điều qua Hội Văn nghệ Giải phóng do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (tức Huỳnh Minh Siêng) làm Chủ tịch với bút danh Lê Anh Xuân, có lẽ Trung ương Cục đã thấy khả năng sáng tác văn học rất tốt của anh. Từ đó cái tên Lê Anh Xuân (từ miền Nam gửi ra) xuất hiện đều trên các Báo Thống Nhất, Văn nghệ, Văn nghệ Quân đội, Quân đội nhân dân…
Năm 1968, tổng tiến công ở miền Nam vang dội cả thế giới, miền Bắc sục sôi, lớp lớp thanh niên xung phong ra trận. Giữa lúc ấy, từ miền Nam gửi ra một bài thơ của Ca Lê Hiến làm lay động lòng người, làm bừng bừng lòng tự hào, ý chí quyết thắng trong lớp lớp thanh niên trai tráng. Đó là bài Dáng đứng Việt Nam. Đây là một bài thơ nhưng nói đúng hơn là một bức tranh, một pho tượng bằng thơ về người chiến sĩ giải phóng quân miền Nam anh hùng.
Tháng 8 năm 1968, khi đi dự Đại hội Thanh Niên sinh viên thế giới lần thứ 9 ở Sofia, chúng tôi cho dịch bài thơ ra tiếng Nga, tiếng Pháp. Các bạn thanh niên thế giới đọc rất thích, có người thuộc lòng, khi gặp chúng tôi họ đọc lên. Một nhà văn hóa trong Hội đồng giám khảo nghệ thuật quốc tế của Đại hội hỏi tôi: Vì sao các anh không gửi dự thi bài thơ này? Nó xứng đáng được Huy chương vàng. Tại Đại hội có trao giải nghệ thuật cho các tác phẩm ảnh, tranh, thơ, nhưng phía Việt Nam ta chỉ chú ý gửi tranh và ảnh mà không nghĩ đến việc chọn gửi thơ dự thi. Tôi tỏ ra tiếc và nói với bà thành viên Hội đồng: “Rất tiếc, chúng tôi không biết là thơ có thể dự thi. Bà nhìn tôi và nói: nhưng Dáng đứng Việt Nam đã được tấm Huy chương cao hơn là đã đi vào lòng mọi người, được thế giới khen ngợi và yêu thích”.
Rất tiếc, sau bài thơ kiệt xuất này, Lê Anh Xuân đã hy sinh. Những người biết anh thương nhớ anh đã đành, nhiều bạn trẻ miền Bắc đã bày tỏ sự tiếc thương anh, chỉ vì đã nằm lòng Dáng đứng Việt Nam của anh. Đúng là
“Tên anh đã thành tên đất nước
Ôi anh giải phóng quân!
Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
Năm 1973, ở Paris về, tôi vào Trung ương Cục công tác. Hôm đó, tôi và hai nhà báo Lê Bá Thuyên, Trần Phượng cùng ngồi với các anh Lưu Hữu Phước, Lê Văn Thảo, Ngô Y Linh, Chim Trắng,… Tôi có hỏi Lê Văn Thảo về cái chết của Ca Lê Hiến. Lê Văn Thảo nói: “Hiến chết ngạt dưới hầm bí mật. Tôi là người dẫn anh em đến lấy xác Hiến đưa về an táng ở Cần Đước”. Thảo kể: “Giai đoạn đó chủ trương của lãnh đạo là ít đưa văn nghệ sĩ ra tuyến trước của cuộc chiến đấu để tránh tổn thương, hy sinh. Nhưng Ca Lê Hiến mấy lần năn nỉ để xin cấp trên cho anh vào nội đô Sài Gòn. Hiến nói với Lê Văn Thảo: “Bụng dạ tôi cồn cào quá, ở trỏng đánh như vậy mà mình ở ngoài này nó làm sao ấy. Ông nói giúp, nói thêm cho tui đi”. Thế rồi cấp trên đã đồng ý. Ca Lê Hiến được cấp súng, quân trang ra trận. Một đoạn nhật ký của Ca Lê Hiến ghi ở cửa ngõ phía Tây Nam Sài Gòn:
Ngày 12 tháng 5: lãnh súng không có bao, lau súng. Đêm pháo bắn đỏ hướng Đức Huệ.
Ngày 13 tháng 5: Ngủ bên bờ sông B.L. Pháo bắn, mưa ướt.
Ngày 14 tháng 5: Ẩn dưới khóm tràm nhỏ tránh trực thăng, trên đầu không lúc nào ngớt tiếng máy bay. Ăn bánh tét trừ cơm.
Ngày 15 tháng 5: Trực thăng rà soát, qua vườn dừa, lội qua nhiều rạch, cánh trực thăng rơi, ướt hết đồ, chạy muốn đứt hơi.
Thông thường hầm bí mật đều có lỗ thông hơi. Trong trường hợp bị ngạt thì có thể mở nắp xông lên chiến đấu, mở đường máu để thoát hoặc cũng lắm là trước lúc hy sinh vẫn tiêu diệt được kẻ thù. Trường hợp Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân, mọi người cho rằng: Có thể hầm đào trên đường hành quân không được chăm sóc, lỗ thông hơi bị tắc. Ca Lê Hiến không mở đường máu vì sợ sẽ lộ, cả đơn vị sẽ trong vòng vây của địch. Không có hợp đồng tác chiến, thì một mình sẽ làm nguy cho cả đơn vị. Ca Lê Hiến đã âm thầm nén chịu và hy sinh để bảo vệ an toàn cho đồng đội.
Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân đã hy sinh ở tuổi 28 xuân xanh, anh đã về cõi tiên như lời thơ anh viết trong kiệt tác Dáng đứng Việt Nam hai tháng trước đó:
“Anh chẳng để gì lại cho riêng anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”
Đúng, anh cũng là một dáng đứng Việt Nam, thơ anh càng xứng đáng hơn như thế. Năm 2011, nhà nước đã truy tặng Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tác phẩm của Lê Anh Xuân được truy tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Dáng đứng Việt Nam
Thơ của Lê Anh Xuân
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công.
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong.
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân

Tôi nhận được tập thơ "Vách đêm" của Đỗ Thu Hằng vào ngày cuối cùng trước khi rời Việt Nam trở về Đức. Tháng...
Bình luận