Chu Chí Thành: Phóng viên chiến trường - Oanh liệt và rất đỗi tự hào
Nhà báo, Nghệ sĩ nhiếp ảnh Chu Chí Thành (Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật) khi còn là một phóng viên trẻ của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) đã đặt chân đến những vùng chiến sự khốc liệt nhất, vượt qua lằn ranh sinh tử, dùng ống kính máy ảnh ghi lại những khoảnh khắc lịch sử quý giá. Những bức ảnh của ông và các phóng viên chiến trường khi ấy không chỉ phản ánh ý chí quật cường của dân tộc, mà còn mang những thông điệp hòa bình mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của đất nước. Ông đã có những chia sẻ về một thời làm báo chiến trường oanh liệt và rất đỗi tự hào.
Tuổi trẻ sục sôi lý tưởng
Được biết khi vừa tốt nghiệp khoa Văn Đại học Tổng hợp, ông được đầu quân về TTXVN sau đó trở thành phóng viên chiến trường, đi vào những vùng chiến sự căng thẳng, ác liệt nhất. Khi ấy ông có lý tưởng, cảm xúc gì?
Năm 1966, học hết năm 3, nhà trường cho chúng tôi làm luận văn tốt nghiệp sớm, ra trường sớm một năm để ra phục vụ chiến trường. Khi có tên trong danh sách và được nhà trường công bố cho biết thì chúng tôi rất vui vẻ, phấn khích.
Bởi lúc đó khí thế của thanh niên, sinh viên luôn sẵn sàng chiến đấu. Không khí rất sôi nổi. Lý tưởng của thanh niên lúc bấy giờ là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Rất đơn giản, rất cụ thể.
Dẫu biết chiến trường vô cùng khốc liệt, hiểm nguy, giữa cái sống cái chết khó mà tránh khỏi nhưng mà mọi người đều sẵn sàng hy sinh, tất nhiên vẫn mong rằng là sẽ lành lặn trở về sau khi chỉ chiến thắng. Đấy là một cái thực tế.
Các phóng viên chiến trường Thông tấn xã Việt Nam: Chu Chí Thành, Trần Mai Hưởng, Mai Văn Minh. (Ảnh: TTXVN)
“Tất cả những nhà báo luôn sẵn sàng chiến đấu, hi sinh như một chiến sĩ”
Ở chiến trường, đã bao giờ ông phải đánh đổi giữa việc ghi lại những khoảnh khắc đắt giá với sự an toàn của bản thân?
Sau khi học xong khóa đào tạo của TTXVN, đầu năm 1968, tôi được phân công vào trong Quảng Bình. Chuyến đi đầu tiên vào vùng lửa “tuyến lửa Khu IV”. Tôi đi cùng một phóng viên của TTXVN là anh Lương Nghĩa Dũng, anh gốc là phóng viên của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, được biệt phái sang TTXVN, ra nghề trước tôi một năm nhưng anh là người trong quân đội, rất chững chạc, hiểu biết công việc của quân đội. Chuyến đi ấy, anh như là người kèm cặp, giúp tôi làm quen với chiến trường, làm quen với các phương tiện chiến đấu của quân đội và làm quen với tác phong của một phóng viên chiến trường.
Ngày 28/5/1968, Quảng Bình bắn rơi 1 máy bay F105 của Mỹ. Ảnh: Chu Chí Thành.
Chuyến đi gây ấn tượng rất tốt cho tôi và tôi học tập được ở anh Lương Nghĩa Dũng tinh thần xả thân vì công việc và không ngại hi sinh. Chỗ nào khó, nguy hiểm, anh nhận về phần anh đi. Thế nhưng tôi lúc đó là một thanh niên trẻ tuổi, tràn đầy nhiệt huyết và lòng hăng hái, yêu cầu: “Những chỗ nào mà anh đi dù có nguy hiểm, dù thật khó vẫn phải có em đi cùng, không may có sự cố xảy ra còn giúp đỡ nhau và tài liệu cũng có thể đem về được cơ quan”. Tôi lập luận với anh như thế, cuối cùng anh cũng nhất trí cho tôi đi, hầu như chuyến nào cũng song song với nhau, trừ một chuyến anh ra Cồn Cỏ. Rất may là chuyến ấy anh đi trót lọt.
Tôi đã chứng kiến, trải qua ranh giới rất mong manh giữa sự sống và cái chết. Đáng nhớ nhất là lần đầu tiên ra chiến trường. Là khi tôi đến cầu Cấm (Nghệ An). Từ năm 1968, Mỹ thực hiện chính sách ném bom hạn chế, tức là không ném rải toàn miền Bắc mà ném bom từ Vĩ tuyến 20 trở vào, các chiến sĩ phải bảo vệ cầu Cấm để giao thông an toàn, thông suốt. Cho nên đây là một trọng điểm mà Mỹ ném bom, một trận địa rất ác liệt.
Khi tôi vừa mới đến trận địa thì đã thấy bom Mỹ dội xuống, ở dưới các chiến sĩ cao xạ bắn lên. Trong chiến đấu, giữa cái sống - cái chết kề nhau, tôi đã vượt qua được thử thách ban đầu. Tôi thấy các chiến sĩ của mình rất gan dạ, rất bình tĩnh, người thì ngắm tầm, người thì theo dõi máy bay, người thì chỉ huy để ra lệnh lúc nào sẽ bắn cho chuẩn xác, chính vì thế mà đánh gạt được bom ra ngoài.
Các chiến sĩ đã truyền cho mình bản lĩnh, đồng thời khi sát cánh cùng các chiến sĩ và dựa vào họ, cảm thấy là mình chụp ảnh cũng rất an tâm và chụp được những bức ảnh tốt. Tôi còn đem theo các thùng vỏ đạn để kê lấy chỗ đứng chụp úp xuống, làm sao thấy được cái gương mặt, động tác của các chiến sĩ. Họ che nắng và nhăm nhăm nhìn lên tầng cao của máy bay để họ bắn súng. Các chiến sĩ thấy chúng tôi bên cạnh thì họ đều tỏ ra rất là bình tĩnh.
Phi công Mỹ Markham Ligon Gartlley gặp mẹ tại lễ phóng thích 3 phi công tại Hà Nội tháng 9/1972. Ảnh: Chu Chí Thành
Tháng 4/1968 ấy, tôi đi xe đạp của mình vào Khu IV, và lăn lộn trong “túi bom” đó 3 tháng. Năm sau - 1969, tôi trở lại Khu IV 2 tháng nữa cũng bằng xe đạp. Bộ đội cao xạ pháo Đoàn Sông Gianh, công binh mở đường phà Long Đại, bộ đội vận tải Đường Trường Sơn, Binh trạm 16, Đại đội Nữ pháo binh Ngư Thủy, Thanh niên xung phong Nghệ An, Hà Tĩnh, dân quân tự vệ Quảng Bình, Vĩnh Linh v.v… đều được ống kính ảnh của tôi ghi lại trung thực với khí thế “Đứng trên đầu thù”, đẹp và lạc quan.
Làm báo lúc đó rất tự hào. Tất cả những nhà báo luôn sẵn sàng chiến đấu, hi sinh như một chiến sĩ.
Nghẹn ngào đón mừng các chiến sĩ thắng lợi trở về - Ảnh: Chu Chí Thành
Những thông điệp đấu tranh cho hòa bình
Trong thời kỳ thông tin vô cùng hạn chế, những tin, ảnh cùng thông điệp qua ảnh mà ông và các phóng viên chiến trường khi ấy ghi lại và phát đi, theo ông đã có những tác động như thế nào đến tình hình, cục diện cuộc chiến và góp phần hình thành ký ức của cả dân tộc về cuộc chiến vệ quốc vĩ đại, thưa ông?
Phải nói là khi tôi bắt đầu cầm máy - cuối năm 1967 đầu năm 1968, cũng là giai đoạn cuộc chiến lên đến đỉnh điểm, Hội nghị Paris bắt đầu mở ra để hai bên đàm phán đi đến hòa bình. Hai bên ở thế giằng co căng thẳng. Đây là giai đoạn chúng ta đấu tranh trên cả ba mặt trận: chính trị quân sự, ngoại giao. Và thông tin, báo chí có tác động vô cùng tích cực đến thắng lợi của ta. Quân dân cả nước chiến đấu với tư thế “đứng trên đầu thù”.
Chúng tôi được vinh dự đứng trong hàng ngũ báo chí. Nhiệm vụ của nhà báo là thông tin và thể hiện chân thực khí thế quật cường của dân tộc, chiến đấu và chiến thắng là chính để làm sao cho nhân dân tin tưởng, phấn khởi vào chiến thắng.
Riêng ảnh của chúng tôi chụp máy bay Mỹ rơi ở miền Bắc, tôi cũng chụp được một lần máy bay Mỹ cháy rơi ở Quảng Bình và bắt được cả phi công nữa, rất nhiều những bức ảnh chiến thắng thể hiện ý chí quật cường của dân tộc... Những ảnh chiến đấu chiến thắng được đưa ra Hà Nội để cơ quan phát cho các báo và các báo dùng, đi tới quần chúng nhân dân trong cả nước, tuy là có đến muộn chứ không được nhanh như bây giờ nhưng mà mọi người vẫn thấy rất phấn khởi. Những bức ảnh, những tin bài là những thông điệp đấu tranh cho hòa bình, củng cố thêm niềm tin của những người cầm súng ngoài mặt trận cũng như của những người ở hậu phương.
Những bức ảnh đó còn được gửi ra nước ngoài qua đường truyền ảnh vô tuyến, phát lên sóng sang Liên Xô, Trung Quốc rồi sang Nhật, sang Mỹ và các hãng thông tấn của nước ngoài như là của Mỹ là AP, AFP của Pháp... Họ nhận được và họ cũng đưa ra để thấy rằng thực tế của chiến tranh Việt Nam như thế nào. Chính những bức ảnh ấy mang thông điệp: Mỹ ở chiến trường Việt Nam đang thất bại và Việt Nam chúng ta mỗi ngày một thắng lớn. Đây là tín hiệu rút ngắn ngày đổ máu, là một thông điệp hòa bình đi nhanh đến toàn thắng. Do đó chúng tôi rất hăng say, không mệt mỏi phấn đấu để có những tấm ảnh tốt tham gia vào hỗ trợ tích cực cho mặt trận chính trị, ngoại giao. Cuối cùng Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán Hiệp định Paris và ký kết theo những điều khoản mà do Việt Nam yêu cầu.
Cả những bức ảnh về các hoạt động của tổ chức quốc tế và sự kiện phóng thích phi công Mỹ, những khoảnh khắc đoàn tụ xúc động của các phi công Mỹ với gia đình tại Hà Nội hay về cuộc trao trả tù binh trên sông Thạch Hãn và việc thi hành Hiệp định Paris tại khu vực này… đã trở thành bằng chứng sống động về khát vọng hòa bình và hòa hợp dân tộc.
Hình ảnh chúng tôi chụp được là những hình ảnh rất thực, rất sinh động và nó là sự thật của lịch sử chiến tranh Việt Nam. Một lịch sử vĩ đại là chúng ta đã đánh thắng được kẻ thù lớn nhất, mạnh nhất khi ấy là đế quốc Mỹ. Công chúng cũng rất quan tâm đến ảnh vì tính chân thực, có sức thuyết phục người xem rất lớn.
Hai người lính - Ảnh: Chu Chí Thành. Bức ảnh nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật.
Giữ vững hào khí nhà báo cách mạng
Sau này trở về cuộc sống hòa bình, quãng thời gian làm phóng viên chiến trường đã ảnh hưởng như thế nào đến phong cách, vào quá trình làm báo sau này của ông?
Nhà báo, NSNA Chu Chí Thành. Ảnh Nguyễn Chi
Chính cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta đã truyền cho tôi cảm hứng rất lớn. Chúng tôi đã trở thành những nhà báo mà trong lòng tràn đầy lý tưởng, niềm tin về chiến thắng và tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Đấy là những chất cơ bản, là vốn liếng quan trọng cho hành trang chúng tôi suốt đời.
Đến khi hòa bình cũng như sau này nghỉ hưu, chúng tôi vẫn luôn mang tư thế, hào khí của một nhà báo cách mạng, làm việc và phụng sự cho đất nước, phụng sự cho nhân dân và không ngại gian khổ hy sinh. Cho đến nay tôi vẫn thích viết. Tôi tự hào là người được đứng trong hàng ngũ báo chí cách mạng Việt Nam.
Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!

Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) vừa chính thức công bố và trao bằng xác lập kỷ lục cho Nghệ sĩ nhiếp ảnh, Nhà...
Bình luận