Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Người lữ hành xuyên thế kỷ

Thế kỷ XX đầy bão táp và biến động, trải qua hai cuộc đại chiến thế giới thứ nhất và thứ hai, cướp đi hàng triệu sinh mạng. Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Phong trào các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh, phá bỏ gông xiềng của chủ nghĩa thực dân. Trong bối cảnh đó, ngày 25 tháng 8 năm 1911, tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, cậu bé Võ Nguyên Giáp cất tiếng khóc chào đời. Và một sự trùng hợp cũng là năm Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Cậu là con ông Võ Quang Nghiêm và bà Nguyễn Thị Kiên. Ông Nghiêm là nhà Nho dạy chữ Hán và bốc thuốc chữa bệnh cho dân nghèo.

Nước Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược. Tuổi thơ, Giáp được nghe mẹ kể mỗi lần quân Pháp kéo tới, bà ngoại đặt các con hai đầu quang gánh chạy giặc. Mẹ hay đọc bài vè “Thất thủ kinh đô”. Bài vè Giáp nghe từ thuở ấu thơ, sẽ mãi mãi không phai mờ trong tâm trí. Cậu Giáp rất thông minh. Sau khi đỗ sơ học yếu lược, Giáp chỉ học một năm lớp nhì, bỏ lớp nhì thứ hai, lên thẳng lớp nhất. Năm 13 tuổi, Giáp được vào Huế học Trường Quốc học.

Ở trường, tháng nào Giáp cũng đứng đầu lớp. Nhưng vào lúc này, việc học không phải là điều anh quan tâm nhất. Phong trào cách mạng ở Huế thời đó rất sôi động, nhất là từ khi thực dân Pháp đưa cụ Phan Bội Châu về giam lỏng bên dòng Hương Giang. Nhiều học sinh, trong đó có Võ Nguyên Giáp, tham gia đấu tranh đòi thả cụ Phan và được để tang cụ Phan Chu Trinh.

Tháng 4 năm 1927, một cuộc bãi khóa diễn ra tại Trường Quốc học Huế. Giáp có người bạn thân, lớn hơn 3 tuổi là Nguyễn Chí Diểu. Diểu hay chia sẻ với anh sự bất bình trước cách giáo dục kiểu thực dân nhằm đào tạo những tên tay sai trung thành với “mẫu quốc”. Diểu bị giám thị để ý, coi là kẻ cầm đầu những cuộc đấu tranh ở nhà trường. Nhân một buổi thi toán, một viên giám thị vu cho Diểu chép  bài của bạn và đuổi khỏi lớp.

Giáp và các bạn làm đơn yêu cầu nhà trường không được đuổi học Diểu. Đơn bị trả lại. Giáp bàn với Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), tổ chức bãi khóa. Cuộc bãi khóa của Trường Quốc học nhanh chóng trở thành tổng bãi khóa của học sinh Huế.

Nhiều nam nữ học sinh bị bắt bớ, giam cầm. Sau một tuần, nhà cầm quyền phải nhượng bộ thả những học sinh bị bắt, nhưng buộc nhà trường đuổi học những học sinh bị chúng coi là cầm đầu, trong đó có Nguyễn Chí Diểu, Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Khoa Văn- Hải Triều.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Người lữ hành xuyên thế kỷ - 1

Võ Nguyên Giáp bị Pháp bắt giam ngày 25-10-1930

Giáp quay về quê, trong tâm trạng bế tắc. Bỗng một hôm, Nguyễn Chí Diểu tìm về An Xá gặp Giáp. Diểu mang theo một tập tài liệu về “Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới” và một số văn bản cuộc họp “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” ở Quảng Châu, trong đó có bài nói chuyện của Nguyễn Ái Quốc. Diểu nói sau khi bị đuổi học, đã tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng và cho Giáp xem chương trình và điều lệ của Đảng. Một con đường mới mở ra trước mắt Giáp.

Giữa năm 1928, Giáp trở lại Huế, làm thư ký cho Nhà xuất bản Quan Hải Tùng Thư, là cơ sở của Đảng Tân Việt.  Tại đây anh có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc và cách mạng. Anh bị cuốn hút bởi những bài của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt cuốn “Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp” (Le process de la colonization Francaise) và tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria). Năm 1929, Giáp đã là một thành viên của nhóm hạt nhân trong Đảng Tân Việt, tích cực vận động cho tổ chức này gia nhập Đảng Cộng sản. Anh viết bài cho báo “Tiếng dân”, tuyên truyền chủ nghĩa Marx. Nhà cầm quyền Pháp theo dõi từng hoạt động của anh.

Sau cuộc khởi nghĩa Xô Viết Nghệ Tĩnh, thực dân Pháp tăng cường khủng bố. Tháng 10 năm 1930, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị kết án ba năm tù giam. Cuối năm 1931, Hội Cứu tế Đỏ Pháp đấu tranh đòi thả thả tù chính trị. Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp và một số đồng chí khác được tha. Võ Nguyên Giáp bị giải về quản chế tại quê An Xá.

Anh chỉ ở nhà một thời gian ngắn, rồi tìm cách ra Hà Nội. Được sự giúp đỡ của thầy Đặng Thai Mai, anh vào dạy tại Trường Thăng Long.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Người lữ hành xuyên thế kỷ - 2

Thầy giáo Trường Thăng Long.

Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên nắm chính quyền, buộc thực dân Pháp ở Đông Dương phải thực hiện một số cải cách dân chủ. Anh tham gia nhiều cuộc đấu tranh công khai của Đảng. Anh viết bài cho nhiều tờ báo của Đảng bằng tiếng Việt và tiếng Pháp và trở thành Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ.

Cuối năm 1939, Chính phủ Bình dân Pháp bị lật đổ. Nhà cầm quyền Đông Dương ra sức đàn áp phong trào cách mạng. Chính lúc này, Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ BCH Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, khuyên anh nên sang Trung Quốc, nơi anh sẽ có dịp gặp Nguyễn Ái Quốc. Mùa hè 1940, anh lên đường, để lại người bạn đời và đứa con gái mới sinh. Chị Quang Thái hẹn khi con cứng cáp sẽ thoát ly đi hoạt động. Hai người chưa biết lần chia tay này cũng chính là lần vĩnh biệt!

Như một sự tiền định, vừa đến Vân Nam, Võ Nguyên Giáp may mắn được gặp ngay Nguyễn Ái Quốc. Chỉ một thời gian ngắn, Bác thấy anh chính là người cần cho chặng đường cách mạng sắp tới và cử anh đi học quân sự tại Diên An. Trên đường tới Diên An, anh được Bác gọi quay lại. Bác nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh, cần gấp rút trở về nước, chuẩn bị đón thời cơ. Năm 1941, Bác trở về Tổ quốc, sống và làm việc tại hang Pắc Bó.

Tại đây, Võ Nguyên Giáp được Bác giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở cách mạng trong đồng bào các dân tộc thiểu số và mở con đường Nam tiến, bắt liên lạc với phong trào cách mạng miền xuôi. Có lẽ đây là sự kiểm nghiệm cuối cùng của Bác đối với anh. Võ Nguyên Giáp đã hoàn thành nhiệm vụ cực kỳ xuất sắc. Cơ sở cách mạng ở Cao Bằng đã nhanh chóng mở rộng.

Tháng 12 năm 1944, Bác trao cho Võ Nguyên Giáp nhiệm vụ xây dựng Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, mà như lời tiên đoán của Người: “Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó sẽ đi suốt từ Bắc chí Nam, khắp đất nước Việt Nam”. Bác đã thấy trước từ đội quân bé nhỏ này, một đội quân cách mạng sẽ ra đời để làm nhiệm vụ lịch sử chiến đấu giải phóng dân tộc. Và chỉ hai ngày sau thành lập, đội quân nhỏ bé, với vũ khí thô sơ, chưa hề qua huấn luyện, dưới sự chỉ đạo của Võ Nguyên Giáp đã liên tiếp tiêu diệt hai đồn binh Pháp Phai Khắt và Nà Ngần.

Chúng ta sẽ không ngạc nhiên trước ngày toàn quốc kháng chiến, trong một cuộc họp Trung ương Đảng, vấn đề đặt ra: “Ai sẽ là Tổng chỉ huy quân đội”? Rõ ràng Bác đã có dự kiến và nói ngay: “Chú Văn có thể làm được”. Mặc dầu lúc đó đội ngũ cán bộ Đảng có người đã từng được đào tạo ít nhiều về quân sự. Chỉ với tầm nhìn của Bác, mới phát hiện  ở người cán bộ 35 tuổi, chưa qua một trường lớp quân sự, có khả năng biến những tư tưởng của Người thành hiện thực. Và với đội quân gồm hầu hết là những nông dân lần đầu cầm vũ khí, có thể bị đánh tan trong vài ngày, nhưng đã đương đầu thắng lợi với đội quân nhà nghề hiện đại Pháp, đã đập tan chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của địch.

Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh phong quân hàm Đại tướng cho Tổng chỉ huy Lực lượng Vũ trang Việt Nam Võ Nguyên Giáp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Người lữ hành xuyên thế kỷ - 3

Sắc lệnh phong quân hàm Đại tướng.

Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đội quân ấy đã lần lượt đánh bại bảy Tổng chỉ huy lừng danh quân đội viễn chinh Pháp. Nhớ lời Bác dặn trước lúc lên đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ: “Trận này rất quan trọng, phải đánh thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. Để đảm bảo “chắc thắng”, Đại tướng đi kiểm tra mặt trận lần cuối trước giờ nổ súng tấn công. Đại tướng cùng Bộ chỉ huy quyết định thay đổi chiến thuật: từ “đánh nhanh thắng nhanh” thành “đánh chắc thắng chắc”, như trong hồi ký của mình Đại tướng viết “Đây là quyết định khó khăn nhất trong đời tôi”. Chính nhờ quyết định sáng suốt đó mà suốt “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, quân dân ta đã chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”.  Báo hiệu chiều tàn của chủ nghĩa thực dân trong thế kỷ XX.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Người lữ hành xuyên thế kỷ - 4

Chủ tịch HCM và Đại tướng VNG bàn kế hoạch tác chiến chiến dịch Biên Giới, 1950.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với đường lối sáng suốt của Đảng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tướng Giáp quân dân ta đã đập tan cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc, giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch Đường 9 Nam Lào, 1971 và “Điện Biên Phủ trên không Hà Nội”, 1972. Để chuẩn bị cho Đại thắng mùa Xuân 1975, giành thắng lợi trọn vẹn, thu giang sơn về một mối, tránh thương vong nhiều cho bộ đội, Đại tướng thân chinh cùng Tư lệnh Trưởng Đoàn 559 Đồng Sỹ Nguyên năm 1973, trực tiếp đi thăm và kiểm tra tình hình bộ đội Trường Sơn và cùng Tư lệnh Quân khu V, Tướng Chu Huy Mân đi thăm vùng giải phóng, đã góp phần quan trọng giành thắng lợi trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất. Đó là những mẫu mực thành công kế tiếp thành công của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, của Đảng ta, trong đó mang đậm dấu ấn của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp.

Tài năng của tướng Giáp biểu hiện ở chỗ biết phát huy truyền thống đánh giặc của cha ông trong thời đại mới “lấy yếu chống mạnh, lấy ít cự nhiều, lấy binh lực nhỏ đánh thắng trận lớn, với phương châm đánh chắc thắng chắc”. Ông là người chủ soái biết phát hiện và phát huy đầy đủ sức mạnh của toàn thể lực lượng vũ trang từ cán bộ đến chiến sỹ, từ bộ đội địa phương đến chủ lực, từ dân quân du kích và các quân binh chủng trong cuộc chiến đấu hợp đồng toàn dân chống lại kẻ thù có sức mạnh vật chất vượt ta một quá trình phát triển lịch sử.

Đạo đức người cầm quân ở ông là biết quý từng giọt máu của cán bộ, chiến sỹ, gắn bó với đồng đội, với nhân dân như tình ruột thịt. Và sự trung thành của ông với dân tộc, với Tổ quốc, với Đảng là tuyệt đối.

Nhà sử học người Anh Peter MacDonald đánh giá: “Võ Nguyên Giáp có 30 năm làm Tổng tư lệnh quân đội và gần 50 năm tham gia vào những suy tính chính trị ở cấp cao nhất: Đó là hai sự kiện chưa từng có trong lịch sử. Vả lại, khó so sánh ông với các tướng lĩnh khác, sự kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy ở một trình độ như vậy trước đây chưa từng có” (“Giáp Les Deux guerres d’Indochine” Peter MacDonald Perrin, Paris 1992)

Tài năng của ông vượt ra ngoài lĩnh vực quân sự, ở bất cứ nhiệm vụ nào: ngoại giao, nội chính, khoa học kỹ thuật, văn hóa, tư tưởng…được trao hoặc có điều kiện tham gia, ông đều có những đóng góp đáng trân trọng. Vì ông không ngừng nghĩ đến cái chung, đến sự nghiệp của dân tộc của Đảng. Ông để lại một dấu ấn lâu bền suốt chiều dài thế kỷ, cùng với thời gian, cuộc đời và sự nghiệp của ông càng được khẳng định.

Trần Mạnh Thường

Tin liên quan

Tin mới nhất