Bài 1: Bảo Ninh với nỗi đau buồn chiến tranh và khát vọng hòa bình
“Nỗi buồn chiến tranh” là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Bảo Ninh, được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành lần thứ nhất năm 1990 và lần thứ hai năm 1991, với cái tên là “Thân phận của tình yêu”. Sau đó, tác phẩm được tái bản, lấy lại cái tên ban đầu “Nỗi buồn chiến tranh” do chính tác giả đặt. Tác phẩm đã được tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, đã được dịch ra 18 thứ tiếng, xuất bản ở 22 quốc gia trên thế giới. “Nỗi buồn chiến tranh” là một cuốn tiểu thuyết có tư tưởng sâu sắc và phong cách nghệ thuật độc đáo. Một cuốn tiểu thuyết đáng gọi là kiệt tác, một trong những đỉnh cao của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
Do có độ lùi về thời gian, nhất là do cá tính sáng tạo độc đáo, mãnh liệt, trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã tạo nên được cái nhìn mới về chiến tranh. Ông nhìn chiến tranh qua thân phận con người; không lấy sự kiện, biến cố lịch sử mà lấy thân phận, số phận con người làm hệ qui chiếu. Cuộc chiến tranh Việt – Mỹ chỉ là bối cảnh chính, có nhắc đến cuộc chiến ở biên giới phía Bắc năm 1979, trên cơ sở đó, ngòi bút của nhà văn tập trung làm nổi bật thân phận của những con người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến và những con người sống trong thời đại mà tất cả các lĩnh vực của đời sống đều bị chi phối bởi chiến tranh và hậu quả nặng nề của nó. Viết về chiến tranh, Bảo Ninh không có ý đồ dựng nên bức tranh hiện thực rộng lớn, toàn cảnh, hoành tráng mà chỉ tập trung miêu tả hiện thực mảnh vỡ, mảnh ghép của cuộc chiến tranh Việt – Mỹ. Không kể câu chuyện chung về thời đại mà kể câu chuyện riêng của mình về thời đại, không nhìn chiến tranh qua con mắt có tính chất sử thi mà nhìn chiến tranh qua cái nhìn riêng, tạo ra “một cuộc chiến tranh riêng của mình” (tr.281). Đây là một cuốn tiểu thuyết nghiền ngẫm, đầy suy tư, trăn trở về chiến tranh.
Bìa tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh" - Bảo Ninh
Nỗi buồn chiến tranh không triển khai kết cấu cốt truyện theo trình tự thời gian, “biên niên” truyền thống mà theo kiểu lồng ghép, tiểu thuyết lồng trong tiểu thuyết. Kiểu cốt truyện này không mới so với tiểu thuyết thế giới, song Bảo Ninh đã triển khai nó một cách linh hoạt và sáng tạo, đã tạo nên được nhiều cốt truyện trong tiểu thuyết của mình. Cốt truyện thứ nhất, cốt truyện chính của Nỗi buồn chiến tranh, là cốt truyện về cuộc đời, thân phận, số phận của Kiên và những người lính trong và sau chiến tranh được thể hiện chủ yếu qua hồi ức của nhân vật Kiên – người lính trinh sát năm xưa, sau đó làm nhiệm vụ thu nhặt hài cốt cuả đồng đội. Cốt truyện thứ hai là câu chuyện viết tiểu thuyết của Kiên. Từ việc đi làm nhiệm vụ qui tập hài cốt liệt sĩ, tận mắt nhìn thấy biết bao hài cốt của đồng đội, từ tâm trạng của một chàng trai tan nát mối tình đầu trong sáng, từ nỗi niềm của một cựu chiến binh nhận ra những nghịch cảnh đầy ngang trái của thời hậu chiến, Kiên nảy sinh ý muốn viết tiểu thuyết với mong muốn kể lại lời trăng trối của những người lính đã hi sinh. Câu chuyện này tạo cái cớ để tác giả gửi gắm quan niệm của mình về văn học, về nhà văn và sứ mệnh của văn chương. Đây là câu chuyện xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, nhưng không phải là “cốt chuyện chủ yếu” như có người nhận xét. Nó chỉ là một bộ phận của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, giữ vai trò bổ sung, tô đậm và làm phong phú, sâu sắc thêm cho cốt truyện thứ nhất của tác phẩm.
Cốt truyện thứ nhất, nhiều tình tiết, nhiều biến cố hơn và cũng đau buồn hơn. Nó là câu chuyện chủ yếu thuộc về quá khứ, được soi chiếu từ thời hiện tại. Nó kể về cuộc chiến tranh và tình yêu của một thanh niên tình nguyện tham gia cuộc chiến từ khi 17 tuổi tới lúc ngoài 40 tuổi. Nó là câu chuyện cụ thể và đầy xúc động về thân phận của một người lính với những cảnh huống cụ thể trong chiến tranh, những căn nguyên để biến một chàng trai 17 tuổi trong trẻo, cường tráng trở thành một người đàn ông dị mọ, một cô gái mắt nâu diệu kì, rạng rỡ trở thành một người đàn bà thác loạn, càng thác loạn lại càng chìm sâu vào nỗi cô đơn.
Hai câu chuyện nói trên không được kể một cách độc lập mà đan cài vào nhau, xen lẫn, nhiều khi giao thoa với nhau. Cốt truyện lồng ghép cũng giúp tác giả khai thác hai mảng hiện thực, hai lớp không gian và thời gian là hiện tại và quá khứ, có khi xáo trộn, làm đồng hiện cả hiện tại, quá khứ và tương lai. Hai mảng, hai lớp hiện thực này có quan hệ mật thiết: cái hôm nay, cái bây giờ là hậu quả, là dư âm của cái hôm qua.
Với sự lồng ghép này, tác giả đã phá vỡ trình tự năm phần của một cốt truyện truyền thống. Các sự kiện, biến cố trong tiểu thuyết này bị đảo lộn, nó hiện ra một cách ngẫu hứng theo dòng cảm xúc, dòng hồi tưởng của nhân vật, của người kể chuyện. Nó hiện ra như những mảnh vỡ của chiến tranh được sắp xếp tưởng như khá tùy tiện ở bề nổi nhưng vẫn nhất quán, tập trung ở bề sâu, làm bật nổi chủ đề của tác phẩm. Với sự đan cài, lồng ghép hai mạch truyện, hai cốt truyện một cách nhuần nhị, nhà văn đã cài cắm, mở rộng chủ đề của tác phẩm. Từ sự giao thoa, cộng hưởng của hai câu chuyện này, với những nhân vật là người lính cùng những nhân vật trong tiểu thuyết của Kiên, Bảo Ninh đã thực sự thành công trong việc tạo nên được nhiều chủ đề sâu sắc trong tác phẩm.
Thống nhất với kết cấu cốt truyện, kết cấu hình tượng của Nỗi buồn chiến tranh được tổ chức theo kiểu xâu chuỗi chủ yếu theo dòng hồi tưởng của Kiên – nhân vật trung tâm của tác phẩm. Có thể thấy, Kiên là nhân vật trung tâm, là đầu mối chính để từ đó, các nhân vật khác, từ Sơn, Thịnh, Can,… đến Phương, Hạnh Lan, cô gái câm, nhân vật xưng “tôi” – người sắp xếp lại cuốn tiểu thuyết của Kiên lần lượt xuất hiện. Các nhân vật này được tổ chức khi thì trong mối quan hệ song song, khi thì tương đồng, khi bổ sung, lúc thì tương phản, có lúc giao thoa với nhau, lại có lúc cùng đồng hiện nhằm thể hiện những chủ đề khác nhau, hướng tới cái đích là thể hiện chủ đề của tác phẩm. Cách tổ chức kết cấu hình tượng như thế không phải không có lúc làm rối ren nhưng về cơ bản vẫn tạo được sự tập trung, nhất quán. Những nhân vật không phải chỉ được xuất hiện một lần mà cứ trở đi trở lại. Chân dung và những nét tính cách của các nhân vật được miêu tả nhiều lần. Và cứ qua mỗi lần như thế, chân dung, chiều sâu tâm lí và tính cách nhân vật càng lúc càng hiện ra phong phú hơn, toàn vẹn hơn và cũng sâu sắc hơn, để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm trí người đọc.
*
Chủ đề của tác phẩm bao giờ cũng được hình thành và được thể hiện trên cơ sở đề tài. Bằng sự trải nghiệm và chiêm nghiệm sâu sắc về chiến tranh, hít thở bầu không khí và sống sâu sắc với thời đại của mình, với tài năng của một cây bút tiểu thuyết, Bảo Ninh đã tạo nên trong tác phẩm của mình bốn chủ đề: nỗi đau buồn chiến tranh, nỗi đau buồn tình yêu, nỗi đau buồn nghệ thuật, những trăn trở, tìm tòi và sự cô đơn trong sáng tạo; trong đó, chủ đề nỗi đau buồn chiến tranh là chủ đề chính, chủ đề cơ bản, trung tâm, bao trùm lên và chi phối những chủ đề khác. Các chủ đề phụ là những vấn đề có ý nghĩa nhỏ hơn, có liên quan mật thiết với chủ đề chính, có chức năng góp phần làm sâu sắc hơn, làm phong phú thêm chủ đề chính. Bốn chủ đề này khi thì song hành, lúc lại đan cài vào nhau, bổ sung cho nhau, hòa hợp với nhau; tất cả được soi rọi bởi tư tưởng cơ bản và cảm hứng chủ đạo của tác phẩm.
Sau những năm tháng nếm trải nỗi đau buồn chiến tranh, nếm trải nỗi đau buồn tình yêu, Kiên muốn quên đi tất cả, quên đi những chuyện đau buồn nhưng nào có được. “Nhưng đúng là không thể quên được gì hết, bởi vì đau buồn là một thể nguyên khối suốt cuộc đời, liền một mạch từ thời thơ ấu, qua chiến tranh đến bây giờ. Và có lẽ để nhận lấy đau khổ, mà người ta được sinh ra ở trên đời này, cũng vì đau khổ mà người ta phải sống, phải mưu cầu hạnh phúc, phải đến với tình yêu, với nghệ thuật, phải tận hưởng phải chịu đựng đến cùng cuộc sống…” (tr.181). Đây chính là quan niệm mang tính khái quát về cuộc đời của Bảo Ninh. Với Bảo Ninh, cuộc đời là nỗi đau buồn lớn. Quan niệm này đã trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên suốt, bao trùm toàn bộ thiên tiểu thuyết, bao quát các chủ đề của tác phẩm. Dưới ánh sáng của quan niệm, của cảm hứng chủ đạo đó, mỗi chủ đề hiện ra sâu sắc hơn và cũng mới mẻ hơn. Để thể hiện những chủ đề nói trên, tiểu thuyết của Bảo Ninh đã xây dựng được thế giới nhân vật riêng. Không phải Nỗi buồn chiến tranh chỉ có một nhân vật chính là Kiên, như một nhà lí luận văn học nhận xét. Tiểu thuyết của Bảo Ninh có nhiều nhân vật chính: Kiên, Phương, cha Kiên, Hòa,… trong đó, Kiên là nhân vật trung tâm.
Không thể xem Nỗi buồn chiến tranh là tiểu thuyết viết về tình yêu; chủ đề tình yêu cũng không phải là chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết này. Chủ đề nỗi đau buồn chiến tranh là chủ đề chủ đề chính, chủ đề nòng cốt của thiên tiểu thuyết. Là con đẻ của thời đại sau 1975, Nỗi buồn chiến tranh không mang âm hưởng sử thi hào hùng, cảm hứng ngợi ca cuộc chiến đấu anh dũng trong hiện tại và tin tưởng mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của dân tộc vốn là đặc điểm cơ bản của văn xuôi viết về chiến tranh trước năm 1975. Với cái nhìn mới mẻ, có tính chất phát hiện của Bảo Ninh, chiến tranh, từ trong chiều sâu thẳm của nó, thấm đẫm nỗi buồn đau. Qua ngòi bút của Bảo Ninh, những con người đã đi qua cuộc chiến tranh này, từ Kiên, Sơn, Sinh đến Thịnh, Từ, Can,… đều là hiện thân cụ thể, sinh động và sâu sắc về thân phận của con người trong chiến tranh.
Trong cuộc chiến ác liệt, lâu dài; người thì tự sát, người thì bị thương van xin đồng đội kết liễu đời mình để thoát khỏi nỗi đau khủng khiếp, người thì đào ngũ, còn đa phần thì sống trong trạng thái căng thẳng về tinh thần, luôn đối mặt với thần chết. Tiêu biểu nhất là Kiên, nhân vật điển hình cho kiểu nhân vật chấn thương tinh thần. Cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt đã để lại trong anh những chấn thương tinh thần sâu nặng. Thời hậu chiến, anh vẫn không sao thoát khỏi những ám ảnh quá nặng nề về chiến tranh. Qua dòng hồi tưởng đầy suy tư, day dứt của nhân vật Kiên, Bảo Ninh đã nói lên được một cách thấm thía, sâu sắc, đến tận cùng tâm trạng của những người lính trở về sau khi kết thúc chiến tranh: “Cuộc chiến tranh thần thánh rốt cuộc đã bù đắp những mất mát anh đã phải chịu bằng một thứ đời sống như ngày hôm nay đây. Sau cuộc chiến tranh ấy chẳng còn gì nữa cả trong đời anh. Chỉ còn lại những mộng mị hão huyền. Sau cuộc chiến tranh ấy anh dường như chẳng còn ở trong một “kênh” với mọi người. Càng ngày Kiên càng có cảm giác rằng không phải mình đang sống mà là đang bị mắc kẹt lại trên cõi đời này” (tr.86 - 87).
Nếu ví cuốn tiểu thuyết này như một dòng sông thì ở đó, những con sóng đau buồn, những đau thương vô hạn, những khổ đau bất tận, những day dứt triền miên, cứ liên tiếp trào lên, hết lớp này đến lớp khác, miên man, vô hồi, trùng trùng, điệp điệp. Cũng có những khúc sông lặng, yên ả, êm đềm, nhưng từ trong chiều sâu thăm thẳm của nó vẫn ẩn chìm, tiềm tàng, chất chứa biết bao nỗi buồn đau; nó chỉ là sự tạm lắng, tích tụ để ngay sau đó những con sóng, những lớp sóng buồn đau lại nổi lên ào ạt.
Qua cái nhìn của Bảo Ninh, chiến tranh hiện ra với sức mạnh bạo tàn, hủy diệt từ cỏ cây, sông núi đến con người. Nó như “một trận động đất”, như “một cuộc đại náo thiên cung. Không thể nào không rùng mình cảm thấy rằng ra đi cùng với ba chục năm chiến trận là cả một thời, là cả một thế giới với biết bao nhiêu là cuộc đời và số phận, là sự sụp đổ của cả một góc trời cùng với đất đai và sông núi” (tr.114). Tiểu thuyết của Bảo Ninh không dựng nên bức tranh toàn cảnh, không phải là hiện thực toàn vẹn, mà là hiện thực mảnh vỡ, mảnh ghép, phân mảnh, về cuộc chiến tranh Việt – Mỹ. Nỗi buồn chiến tranh là một tiếng nói khác, một cách nhìn khác về chiến tranh, thể hiện sự đồng cảm thông sâu sắc, lạ lùng của nhà văn với những thân phận, những bi kịch của con người trong chiến tranh.
Bảo Ninh tô đậm nỗi đau buồn chiến tranh để hướng tới khát vọng hòa bình, để khẳng định khi đã đổ bao máu xương để giành chiến thắng, để có hòa bình thì phải giữ vững hòa bình bằng mọi giá. Mong muốn, sau cuộc chiến tranh ác liệt này, đất nước ta không bao giờ có chiến tranh nữa, không bao giờ có “những huống cảnh chiến trận kinh hoàng, những cảnh huống mà cầu trời cho đừng có ai đó trên đời này lại một lần nữa phải lâm vào” (tr. 93). Mong muốn kết thúc chiến tranh để con người được trở về với cuộc sống đời thường. “Những cuộc đời có lẽ chẳng sung sướng gì và cũng đầy tội lỗi, nhưng vẫn là cuộc đời đẹp đẽ nhất mà chúng tôi có thể hi vọng, bởi vì đấy là đời sống hòa bình” (tr. 282). Đọc tiểu thuyết của Bảo Ninh, ta có thể thấu hiểu, không có nỗi đau buồn nào lớn hơn nỗi đau buồn chiến tranh! Không có khát vọng nào lớn hơn khát vọng hòa bình! Với nỗi đau buồn, khát vọng lớn lao ấy, Nỗi buồn chiến tranh đã chạm được vào nỗi niềm chung của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, chạm vào nỗi buồn nhân thế và khát vọng hòa bình của nhân loại.
Nhà văn Bảo Ninh tại tọa đàm “Sống để kể lại” - Gặp gỡ, giao lưu với nhà văn Bảo Ninh do Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại - Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức vào năm 2023.
*
Bảo Ninh viết trong Nỗi buồn chiến tranh: “Nỗi buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì từa tựa như nỗi đau buồn của tình yêu, như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều buông trên bến sông bát ngát. Nghĩa là buồn, là nhớ, là niềm đau êm dịu, có thể làm cho người ta bay bổng lên trong thời gian quá khứ, tuy nhiên với điều kiện không được dừng nỗi buồn chiến trận lại ở cụ thể một điểm nào, một sự việc nào, một con người nào, bởi vì khi dừng mắt lại thì không còn là nỗi buồn nữa mà là sự xé đau trong lòng, và nhất là đừng có nhớ chạm tới những cái chết” (tr.98 - 99). Bảo Ninh đã ý thức đặt nỗi đau buồn chiến tranh bên cạnh nỗi đau buồn tình yêu, đã khéo léo đan cài chủ đề nỗi đau buồn tình yêu vào chủ đề nỗi đau buồn chiến tranh. Chúng vừa có nét tương đồng, hòa trộn vào nhau vừa có nét riêng soi sáng, bổ sung cho nhau, cộng hưởng với nhau. Qua ngòi bút của Bảo Ninh, thân phận của con người trong chiến tranh và cả thời hậu chiến nữa hòa trộn với thân phận của tình yêu, bi kịch chiến tranh gắn liền với bi kịch tình yêu; trong đó, bi kịch chiến tranh là là cội nguồn, là nguyên cớ sâu xa của bi kịch tình yêu.
Để thể hiện chủ đề bi kịch tình yêu, Bảo Ninh đã xây dựng hai nhân vật song hành là Kiên và Phương; còn các nhân vật Hạnh, Lan ở đồi Mơ, cô gái câm là những nhân vật bổ sung. Qua cuộc đời và số phận của Kiên, nỗi đau buồn chiến tranh dường như là song hành với nỗi đau buồn tình yêu. Không chỉ sống trong hồi ức đau buồn về chiến tranh, với tình yêu, anh cũng luôn sống trong những kỉ niệm, hồi ức xa xôi và đượm buồn. Phương là mối tình đầu của Kiên - một mối tình vừa hồn nhiên, trong trắng, thánh thiện, vừa tự nguyện hiến dâng, đã cho Kiên sinh lực để trở thành người may mắn, nhiều “hồng phúc” nhất trong chiến tranh – trở thành kẻ sống sót. Qua ngòi bút tài hoa của Bảo Ninh, Phương hiện ra như một cô gái Hà Nội đẹp tuyệt trần, “một sắc đẹp bừng cháy sân trường Bưởi” (tr.144), “đẹp lồ lộ, hừng hực, đẹp một cách liều lĩnh, nổi trội” (tr. 144). Mái tóc Phương hồi đó “để rất dài, xỏa rộng phủ lên mình Kiên, ấm và thơm lạ lùng”, “hai bầu vú trắng phau” (tr.152). Bao tháng năm bị dập vùi trong khói lửa chiến tranh tàn bạo, Kiên vẫn không bao giờ quên những kỉ niệm về Phương. “Cái đêm xa xăm ấy còn sống mãi. Chỉ cần giúp sức một chút cho trí tưởng tượng là có thể thấy lại trong lòng cheo leo một vừng trăng neo ở rìa mây và một mặt hồ đêm tối như cái hố mênh mông đen ngòm. Và nhiều đêm trong giấc ngủ, giữa những cái chết, giữa những đoạn kí ức đầy tai họa và đau khổ, anh thường mơ thấy và cảm thấy lại vị ngọt của giọt sữa trinh nữ đã cho anh sinh lực để trở thành người mạnh nhất, nhiều hồng phúc nhất trong chiến tranh – Trở thành kẻ sống sót” (tr. 153).
Phương có “vẻ đẹp lạc thời và lạc loài” (tr.142). Vẻ đẹp của Phương, mối tình hồn nhiên, trong sáng của Phương với Kiên khó có thể tồn tại trong hoàn cảnh chiến tranh. Chiến tranh đã chia rẽ, đã vùi dập, tàn phá tình yêu của họ. Kiên tự nguyện lên đường chiến đấu khi mới 17 tuổi. Chỉ còn ba tuần nữa là thi vào đại học, Phương đã nói với Kiên: “chẳng còn đêm nào như đêm nay. Chẳng còn bao giờ được nói với nhau nữa. Bởi vì anh đi đường anh thì em cũng đi đường em” (tr.150). Vừa mới chạm vào khói lửa chiến tranh, trong cái buổi tiễn Kiên vào Nam, trong cái bối cảnh xô bồ, bát nháo đạn bom, Phương đã bị hãm hiếp trên toa tàu hàng. Biến cố này đã đẩy xa Kiên và Phương mỗi người mỗi phía.
(Còn nữa)
(*) Các trích dẫn trong bài viết này đều lấy từ: Bảo Ninh, Thân phận của tình yêu, NXB Hội Nhà văn (in lần thứ 2), năm 1991. Phần in nghiêng là do người trích nhấn mạnh.

Mạc Phi dám từ bỏ phố phường Hà Nội phồn hoa lên miền Tây Bắc vời vợi nghìn trùng, học tiếng Thái, lấy một cô gái...
Bình luận