Một giọng lục bát không trộn lẫn*
Có những con chữ khởi sinh từ sự buồn vắng, mà ở đó tôi nghe thấy tiếng thở dài từ cuộc đời đi giữa hai làn thanh sạch và gió bụi. Khi niềm vui ngắn ngủi, thì nỗi buồn lại dài lâu. Thơ là lối con người đi sâu vào nỗi triền miên, vô tận, mặc khải nỗi buồn. Mười lăm tuổi, chàng thi sĩ Đỗ Anh Vũ đã vẽ buồn bằng con chữ. Đến nay, tròn 30 năm, gia tài thơ của anh đã vời vợi tay nải. Ngoảnh nhìn quá khứ, bao nhiêu điều đến rồi đi, chỉ có nỗi buồn không rời bỏ Vũ. Từ bấy, anh đã mang trong mình niềm hoang vắng không tên. Mà chỉ có ở miền tịch liêu ấy, thơ mới tìm đến với anh. Vì người thơ không buồn, khi ấy anh ta trắng tay. Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ có một gia tài.
Vũ là một chàng trai tài hoa, đa đoan, bất cứ điều gì lọt vào mắt anh, đều ngân lắng thành phù sa tâm hồn. Thiên địa từ thuở sơ khai, vốn đã buồn, bước ra từ cõi ấy, hồn người bị băm những nhát tử thương, và khi ấy người ta cần thơ để trị vết buồn năm tháng. Nỗi buồn không kéo người xuống vực sâu, mà nâng đỡ, xoa dịu, để con người đủ sức mạnh sống với nỗi buồn, nuôi dưỡng nỗi buồn, khiến nó đẹp và cao thượng. Thơ Vũ vì thế ngày càng trăn trở, da diết yêu thương, đa thanh, đa diện.
Đỗ Anh Vũ dành nhiều thời gian cho đề tài thế sự, với giọng thơ trữ tình sâu lắng, dù ở các mảng khác anh sáng tác được nhiều tác phẩm tiêu biểu. Đi vào hiện thực, đào sâu cái tôi nội cảm, thơ Vũ, từ những điều giản dị, nhỏ bé hàng ngày, đã nói được những vấn đề phổ quát, lớn lao của cuộc sống. Ấy là lối viết giản dị của anh, nói như không nói, viết như không viết.
Tiến sĩ Đỗ Anh Vũ
Phòng xưa, tứ thơ lục bát chỉ gồm 8 cặp, nhưng đã gói trọn một câu chuyện về nhân tình thế thái. Vũ nhập vai người phụ nữ, đi sâu vào thân phận đàn bà. Ở đây, thời con gái như một vệt son môi đã nhạt phai, qua bao nhiêu bão giông, cô ấy mới có những khoảnh khắc trầm tư để nhìn lại đời mình, để thấm lệ hôn nhân và đầy lòng biết ơn đấng sinh thành. Vũ nhắc lại thời xuân sắc nhiều mộng ước của cô qua “thiếu nữ tươi xanh”, “pháo nổ theo anh về nhà”. Nhưng sau đó là một cuộc hôn nhân mang thân phận. Duyên phận “dở dang”, làm mẹ và một mình nuôi con.
“Sau bao giông bão gió mưa
Đêm nay trở lại phòng xưa của mình
Một thời thiếu nữ tươi xanh
Một ngày pháo nổ theo anh về nhà
Một ngày dang dở xót xa
Một ngày làm mẹ cùng là nuôi con”
Tứ thơ như một tự sự buồn, nỗi thương mình đến xót xa. Những câu thơ về lòng biết ơn cha mẹ, nhưng cũng chính là một day dứt, sám hối, của đứa con ra khỏi vòng tay gia đình yêu ấm nhưng chẳng khiến mẹ cha an lòng. Phàm thì, bất kì đứa con nào trên thế gian này, cũng không trả hết nợ sinh thành, nhưng nếu yên bề gia thất thì đi một nhẽ…Xót thương cô gái bao nhiêu, Vũ càng xót thương tấm lòng cha mẹ bấy nhiêu. Tình yêu của đấng sinh thành thật dài rộng vô chừng, đứa con dù đi trọn đời cũng không thấu. Người già, luôn lường trước cả tai ương, vẫn dành cho con căn phòng xưa, nhỡ khi con lỡ bước.
“Mẹ cha bóng xế đầu non
Thương con như thuở con còn bé thơ
Giữ gìn nguyên vẹn phòng xưa
Biết đâu có lúc con đưa bước về”
Thế rồi, sóng gió cũng qua, cháu ngoại lớn, nhưng “con thì già đâu”. Vũ đã diễn tả đủ đầy phút ưu tư, thoảng qua tình thế chênh vênh của nhân vật trữ tình. Vững đấy mà cũng thảng hoặc xao lòng trong cõi một mình. Cô ấy thấy mình chưa già, nghĩa là vẫn còn những khao khát, và cả chút hờn thương thân phận. Điều tinh tế ấy, là đặc quyền của thơ.
“Mưu sinh tất bật bộn bề
Cháu ông bà lớn, con thì già đâu
Đêm nay trở lại ngày đầu
Lặng thầm khơi ngọn đêm sâu lửa hồng”
Trong suốt chiều dài tác phẩm, Vũ đã sử dụng đắc địa từ “một” kết hợp với các từ chỉ thời gian: “một thời”, “một ngày”, cuối cùng nhập vào người đàn bà “một mình”, tất cả để diễn tả nỗi cô độc, duy nhất. Kết thúc bài thơ, người phụ nữ đã trở thành căn phòng để dung chứa mọi tai ương, hạnh phúc, chấp nhẫn đời mình. Cô ấy đã tự trò chuyện, làm bạn với chính mình. Một kết thúc có hậu. Tuy nhiên ai trong chúng ta cũng một mình mà thôi, bởi bản năng con người là cô đơn. Người thơ càng cô độc. Vũ đã soi vào thân phận phụ nữ để cảm thông, trắc ẩn và thấm thía tấm lòng cha mẹ, đồng thời hiểu mình hơn.
“Một mình thành một căn phòng
Bóng đêm bóng lửa lồng trong bóng mình”.
Trong căn phòng của đời mình, Vũ đã bao lần hát ru con. Vũ luôn quyến luyến với con, vì anh là một người cha chu toàn. Nhưng vì rất nghiêm khắc với bản thân, nên anh có nhiều lúc “giật mình”. Những cái giật mình đáng yêu và đầy trách nhiệm, nếu người đàn ông nào cũng làm cha như Vũ, thì cuộc đời này rất nhiều hạnh phúc.
“Giật mình con khóc giữa đêm
À ơi tiếng hát ru mềm ấp iu
Lời ru tha thiết trăm chiều
Đưa cha về với tình yêu của bà
Ấu thơ khắc khoải miền xa
Chở che cho bước chân cha mỏi mòn”
Ru con chính là ru mình. Vũ không ngại ngần đào sâu vào chính mình, một cái tôi nội cảm len vào câu chữ những “khắc khoải”, “mỏi mòn”. Nhớ ấu thơ bên cha mẹ và những lo âu, dự cảm trước gánh nặng cuộc đời. Thơ Vũ đi vào lòng người bởi lối viết chân thực, giàu cảm xúc.
Lấy con để đo lòng cha. Thường thì khi đứa con được sinh ra thì tình phụ tử mới xuất hiện, như người xưa từng dạy “sinh con rồi mới sinh cha”. Nhưng ở đây, Vũ tận tụy với con như một người mẹ. Anh luôn bên con, chăm giấc ngủ cho con. Yêu con, thương vợ, nỗi yêu thương thấm vào “lời ru gầy guộc”. Khi con say giấc thơ, cũng là khi cha đang khao khát tròn giấc mộng đời mình.
“Bây giờ đến mẹ ru con
Lời ru gầy guộc chưa tròn giấc mơ
Ầu ơ con ngủ ầu ơ
Cha ngồi viết nốt bài thơ chưa thành
Ngày mai tia nắng long lanh
Dìu chân con bước nhanh nhanh tới trường
Lời ru chắn gió che sương
Đi cùng con mọi nẻo đường con đi”
Con vào giấc sâu, cha mới an lòng.
“Dịu dàng đêm khép hàng mi
Lời ru còn thức cũng vì con thôi…”
Hai câu kết thật đẹp và trong trẻo. Qua phép nhân hóa, đêm đã thành con mắt ngủ. Con và đêm say nồng, chỉ “lời ru còn thức”. Lời ru mang sinh mệnh. Đó không chỉ là tình yêu vô bờ bến của cha mẹ, đó còn là dưỡng chất nuôi lớn tâm hồn con. Tiếp nối mạch nguồn văn học dân gian, Vũ di dưỡng vẻ đẹp văn hóa tinh thần dân gian, trân trọng và phát huy truyền thống dân tộc. Khi những xô bồ của cuộc sống hiện đại ít nhiều đã và đang xâm thực vẻ đẹp xưa, thì bài thơ Lời ru của anh như một dòng nước thuần khiết, mát lành tưới tắm để tâm hồn người bớt chai sần, bụi bặm. Biết ơn và trân trọng quá khứ là một bài học cần thiết cho mỗi người.
Ra khỏi khúc ru, Đỗ Anh Vũ đến với phố thị. Giữa ồn ào, tấp nập, anh gửi suy tư của mình vào Cánh chuồn lạc phố. Con chuồn chuồn nhỏ bé đã trở thành một biểu tượng của làng quê Việt Nam truyền thống. Đó có thể là cánh chuồn có thực, có khi là hình ảnh trong tâm tưởng nhà thơ. Dù nó bay ở vòm trời nào, thì tôi đinh ninh rằng, nỗi nhớ quê trong Vũ luôn thường trực và cả những lo âu về những miền quê trù phú dần biến mất trong sự thôn tính của phố xá.
“Chiều nay chân bước vỉa hè
Bỗng dưng gặp cánh chuồn quê thuở nào
Lạ lùng sao, lạ lùng sao
Phố phường vắng cánh chuồn bao lâu rồi”
Cánh chuồn đã dẫn anh bay về khung trời quê hương. Miền chỉ còn hiển hiện trong những cơn mơ dở dang giữa thấp thỏm thị thành. Vũ tái hiện một triền quê bình yên, đẹp đến nao lòng: đứa trẻ đầu trần, chân đất giữa cánh đồng ngút ngát, con sông trong vắt như tấm gương soi, cỏ cây, nhành hoa trổ mình vào không gian tươi xanh, cả tình bạn nao nức của đôi bạn thân thiết. Tất cả, tất cả như dậy lên một khúc đồng quê vi vút, thuần khiết. Những con chuồn chuồn tuổi dại lấm lem vỗ cánh trong thơ Vũ, đẹp vô ngần. Từ “chuồn” dày đặc trong tứ thơ, chao liệng, thêu vào tâm tưởng độc giả, gợi lại những giấc chiêm bao đã đứt, như một khoảnh khắc mà lòng lành vô chừng.
“Chỉ còn trong giấc mơ tôi
Một thời chân đất đầu phơi giữa đồng
Chuồn ngô đậu ở triền sông
Chuồn chuồn ớt liệng vòng vòng ngọn cây
Chuồn kim vờn cánh hoa bay
Cánh chuồn nào đậu vào tay bạn mình”
Thế rồi một ngày, tạm biệt quê, “tôi” đi kiếm những giấc mơ thị thành. Có bao nhiêu người như “tôi”, phải rời bỏ mái nhà yêu dấu để dấn chân vào cuộc mưu sinh khốc liệt. Để đôi khi, giữa lưng chừng nhọc nhoài bụi phố, mùi quê xao xác níu gọi. Bài thơ như một khúc giãi bày nhưng cũng mang màu sắc thế sự, Vũ nhắc đến cuộc di dân cơ học. Biết bao làng quê xa ngái, chỉ còn người già, con trẻ, người trưởng thành phải vắt sức giữa cuộc kim tiền, mà thất bát và hệ lụy là điều không tránh khỏi.
“Rời quê, tôi đến thị thành
Làng tôi đồng ruộng vắng tanh bóng người
Chuồn chuồn có phải nhớ tôi
Bay từ làng cũ xa xôi tìm về”
Thơ Vũ gọi dậy cái tâm trạng thiếu quê hương. Mà thực ra, Kinh Kỳ cũng là quê hương anh đấy thôi. Đứng giữa quê hương mình mà vẫn thấy thiếu quê hương. Một khao khát gìn giữ, phát triển hệ sinh thái nông thôn, để những đứa con dù tóc đã gội thời gian được thấy mình dưới bóng quê ngát xanh. Câu hỏi Vũ đặt ra, khiến tôi đọc xong bài thơ, mà lòng vẫn chưa ra khỏi tâm trạng “lạc”, thảng thốt của anh.
“Cánh chuồn lạc ở vỉa hè
Còn tôi có lạc giữa quê hương mình…?”
Đứa con Đỗ Anh Vũ luôn tìm về chốn quê để xoa dịu tâm thế “lạc phố”. Quê hương trong buổi chiều cuối năm, khi anh chỉ còn nhìn thấy đôi bóng song thân qua di ảnh. Tảo mộ cuối năm tựa như bài thơ tổng kết về một năm lao đao, vật lộn của đứa con. Cội nguồn huyết hệ là điều gì đó vô cùng linh thiêng, nên dù cha mẹ đã thuộc về cõi thiên thu, thì khi đối diện trước họ, đứa con nào cũng tìm thấy yêu thương và nguồn năng lượng sống. Nhân vật trữ tình đã bộc bạch những lời gan ruột, như là một sự trút bỏ gánh nặng ưu tư. Vũ- người đàn ông tuổi 45, đã vượt qua bao khó khăn, thử thách, nhưng khi đối diện trước mộ phần đấng sinh thành, anh vẫn còn nguyên cảm giác mình là một đứa trẻ mồ côi. Tôi đọc những câu thơ đầy xúc động của anh.
“Chiều nay gió lạnh sắt se
Mình tôi tảo mộ đồng quê vắng người
Song thân yên nghỉ lâu rồi
Thoáng đôi mắt mẹ nhìn tôi ưu phiền
Năm qua sóng gió có yên
Chăm làm sớm tối đủ tiền mưu sinh?
Một năm trả những ân tình
Có thêm được những điều mình ước ao?”
Đỗ Anh Vũ dành nhiều thời gian cho đề tài thế sự, với giọng thơ trữ tình sâu lắng, dù ở các mảng khác anh sáng tác được nhiều tác phẩm tiêu biểu.
Vũ đã biến cuộc trò chuyện trong tâm tưởng của anh với cha mẹ thành câu chuyện một năm của nhiều người con. Vì thế nên mới có các cận cảnh trực tả mắt cha/ mắt mẹ và tạo thành cuộc trò chuyện. Câu chuyện cá nhân thành câu chuyện phổ quát, ấy là sự khéo léo đan cài và là bản năng thơ Đỗ Anh Vũ. Nghệ sĩ, họ viết về chính mình, về những trải nghiệm của họ dọc hành trình gió bụi, nhưng khi đứa con tinh thần của họ đi vào đời sống, thì bất kì độc giả nào, cũng tìm thấy bóng dáng mình ở đó. Đấy chính là tài năng của tác giả.
“Một năm cay đắng lao đao
Gia đình tuy khổ bên nhau vẹn toàn
Dù phiêu bạt khắp nhân gian
Chốn quê là cõi an toàn trú thân
Con đi khắp chốn xa gần
Tấc lòng neo đậu mộ phần mẹ cha”
Lời thơ đã gói trọn những sóng gió, cơ hàn của cuộc sống, nhưng “tôi” đã vượt lên tất cả bằng nỗ lực, bằng những lời răn dạy mà cha mẹ đã trao truyền. Con người chỉ có đủ sức mạnh nội sinh khi tâm hồn được bồi đắp bằng lòng biết ơn và trân trọng cội nguồn. Đứa con nào cũng thế, không ra khỏi lòng yêu thương của cha mẹ và chỉ có quê hương, gia đình là nơi duy nhất mà con người nương náu để vượt qua những tai ương của số phận.
Đây là lời cha dặn dò và cũng chính là quan niệm sống của Vũ. Và cũng là lời của những người cha trên thế gian này dạy con.
“Mênh mang thăm thẳm đất trời
Hiên ngang mà sống, thế thời sá chi”
Vũ đã khéo léo sắp đặt một cuộc kết nối linh thiêng âm dương. Những hình ảnh thơ “gió lạnh sắt se”, “yên nghỉ”, “mộ phần”, “mênh mang thăm thẳm”, “vi vút gió” gợi ra đời sống âm, có gì đó buồn vắng, rợn ngợp thì lời của “tôi” lại là sự hiện diện đủ đầy, sinh động nhất của đời sống trần ai. Tác giả gợi ra quy luật tất yếu của cuộc sống vĩ đại: con người sinh ra từ cát bụi, rồi lại trở về cát bụi. Cuộc sống cũng là sự giao hòa âm dương. Trước thế giới linh thiêng, con người có ý thức sám hối, được thanh tẩy, được tri nhận nguồn năng lượng diệu kì. Niềm tin ấy để con người sống người hơn, có ý thức đấu tranh để tự hoàn thiện mình.
Thơ Đỗ Anh Vũ trước những bộn bề thế sự, tuy trăn trở, âu lo nhưng vẫn tràn đầy yêu thương, tin tưởng, lạc quan vào con người và cuộc đời. Đọc Vũ, tôi có cơ hội được tắm gội bằng những con chữ trong trẻo, ân tình. Tuy chỉ là một chùm thơ ngắn, gồm 4 bài, không lấy mất nhiều thời gian của tôi. Nhưng đủ để tâm hồn tôi có cơ hội lắng lại. Tôi nghĩ đến thân phận hôn nhân của những người đàn bà đã trưởng thành, nghĩ đến cha mẹ mình, nghĩ đến đổi thay của đời sống, cả những xó tối tâm hồn, thì thơ Vũ ít nhiều như một sự bừng sáng, để khiến những u hoài trở nên ấm áp. Những con chữ không chỉ là khối hương ẩn mật mà còn là thứ âm thanh mà nhất định tôi phải nghe, để được chậm trôi trong niềm rưng rưng của một nội tâm từng bị trầy xước bởi những va đập của đời sống này.
*Nhân đọc chùm thơ Đỗ Anh Vũ tham dự cuộc thi thơ Làng Chùa 2025

Thơ không phải là sự bột phát bất ngờ. Thơ là một một hạt mầm được gieo vào tâm hồn thi sĩ, chờ ngày trổ nhánh....
Bình luận