Mùa hoa cũ (truyện ngắn)

Lão cho mua gạch chở về chất chật vườn chuối. Nhìn những kiêu gạch đỏ hồng lão tủm tỉm. Sờ những cạnh gạch sắc nhọn, lão gật gù. Lão đợi sang xuân, được tuổi sẽ khai móng. Lão đã ngầm nhờ một kỹ sư trên huyện vẽ cho một mẫu mới. Cóc lo, cần thì vay mượn mà làm, sợ gì thằng nào!

Làng Chiềng quê tôi là một làng nghèo.

Có lẽ nghèo nhất vùng châu thổ…

Lão cũng nghèo. Phải nói rằng tứ đại nhà lão nghèo. Ông nội lão cày thuê, cuốc mướn chỉ đủ nuôi miệng. Bố lão ngược xuôi, buôn bè dọc sông Hồng, kể cũng kiếm kha khá. Một trận ngã nước, tiền của đi tong hết. Đến đời lão, có thời hùng hục đi đào vàng, vàng chẳng thấy, toàn vàng mắt, vàng da, suýt chết. Hai thằng con trai của lão: Khỏe mạnh, chí thú nhưng sẽ chẳng ra gì nếu không có công cuộc đổi mới. Phải nói rằng cơ chế thị trường cũng làm cho nhà lão dễ thở. Các con lão nhờ bạn bè giúp, lại biết xoay xoả đã dựng được căn nhà ngói bốn gian. Đời lão thế là thoả. Đôi khi ngồi rít thuốc lào, ngửa cổ, chụm mồm nhả khói phù phù; Lão nhe hàm răng vàng khè, đầy bợn ra mà đùa:

- Trời cũng có mắt, thương đến những thằng khố rách như tôi. Bây giờ có chết thì cũng đã có cái gian giữa mà quay quan tài các ông ạ!

Lão nheo mắt. Rồi ngả người, vắt chân nghéo một cái,há to mồm, nhả một bụm khói thuốc lào mù mịt,  nghe chừng mãn nguyện lắm.

Đó là lão Tộ ở làng Chiềng quê tôi.

Cạnh nhà lão Tộ là lão Bún. Hai lão cùng tuổi Đinh Hợi. Lại cùng có một thời oanh liệt; Hai lão đã qua bộ đội chống Mỹ cùng trở về quê, cùng lấy vợ là hai đồng đội ở tỉnh xa; cùng bươn chải kiếm ăn… Và cùng nghèo như nhau.

Mùa hoa cũ (truyện ngắn) - 1

Minh hoạ Ngô Xuân Khôi

Cực nỗi, cứ nhìn thấy hai cô con gái nhà lão Bún càng lớn càng xinh xẻo, điệu đàng, lão Tộ càng ấm ức. Bởi lão thấy hai thằng con trai nhà lão vẫn cứ thùi lũi, hùng hục bắt cua, đá bóng. Nhà lão Bún nườm nượp khách lạ, con gái lớn nhà lão Bún cứ phây phây rồi được sang Tây Đức, có người bảo lãnh.

Mấy năm sau, đứa con gái thứ hai nhà lão Bún cũng đi Tây. Nó bảo anh chị nó ở nước ngoài cần người sang giúp. Chẳng biết bên đó chúng làm ăn ra sao, chỉ biết rằng cứ cuối tháng lão Bún lại ra bưu điện nhận bưu phẩm và tiền do các con gửi về. Cũng từ đó, những thứ đồ ăn, thức uống nhà lão Bún cứ xa lạ dần với cái làng Chiềng còm cõi này.

Khi hai đứa con trai nhà lão Tộ hoàn thành nghĩa vụ quân sự, về quê lấy vợ. Chúng làm được căn nhà ngói (mà bây giờ người ta gọi là nhà cấp bốn), cũng là lúc nhà lão Bún rầm rập đón con cái trở về.

Đầu tiên là cô gái nhớn. Cô vén váy bước ra khỏi ô tô mà cứ tưởng phu nhân quan to trong phim. Cô hất cái sắc ra sườn, nheo nheo mắt nhìn xóm cũ. Lão Bún lùng bùng trong bộ pi-gia-ma, nhon nhón chạy ra đón. Hai tay lão chìa ra, bắt lấy tay cô con gái, lắc lắc trông đến là nực ruột! Cô ta đưa hai đứa con về thăm ông bà ngoại. Đứa con trai quần bò, đeo kính đen trông như thiếu niên 13 tuổi. Ấy thế mà cô lại bảo cháu mới lên bảy; năm nay cho cháu về nước để đi học lớp một. Đứa con gái thứ hai mặc váy cũn cỡn hở cả bẹn. Lũ trẻ xóm Chiềng được phen cười xoe xoé.

Nửa năm sau, một ngôi nhà ba tầng đồ sộ mọc lên trên đất nhà lão Bún. Những ô cửa kính đen ngòm ở tầng cao trông chẳng khác đôi kính râm của lão hát xẩm ngoài chợ.

Lão Tộ nhìn sang nhà lão Bún mà lòng cứ chênh vênh. Đã đành có tiền thì xây. Nhưng ở hết thế đếch nào được mà xây to thế? Nhiều hôm lão Bún gọi sang uống chè buổi sớm, lão tảng như không nghe thấy. Hàng ô rô chia đất giữa hai nhà như dày lên, màu xanh như đậm hơn.

Song, lão Tộ chỉ thực sự bực mình khi nhà xây xong, con cháu lão Bún tụ tập những bạn bè Tây Tàu ở đâu về ầm ĩ đến nát tai. Chúng uống, chúng cười đùa váng óc. Tiếng nhạc xập xình, tiếng “dô, dô…” trùm xuống căn nhà ngói nhỏ thó bên cạnh. Rồi đến cái ăn nữa. Có bữa nhà lão Bún đổ ra vườn mấy xoong thức ăn thừa. Toàn là thịt quay, gà tần. Mùi gia vị vẫn còn ngôn ngốt. Con Mực nhà lão Tộ đánh mấy bữa no sực, về nhà nằm ườn ra cửa. Lão điên tiết, vác điếu cày phang cho mấy nhát vào lưng. Con chó tru lên òng ọc, chạy tụt sang nhà lão Bún. Những hôm như thế, lão Tộ ngồi trên cái phản giữa, uống rượu “xếch”, tay vặn to cái đài SHARP cũ kỹ, cố át những tiếng ồn ào từ nhà bên vọng sang.

Rồi những ngày như thế cũng qua. Khi trời xuân ấm áp, lũ con lão Bún lại sang trời Tây xa lắc ấy làm ăn, chỉ để lại thằng cháu trai cho đi học lớp một. Ở nhà, ông bà Bún dạy cháu nói tiếng ta. Đến lớp cháu học toán, học viết chữ Việt. Được cái chăm học. Thỉnh thoảng cháu dắt con Mi Lu ra chơi với con Mực nhà lão Tộ. Những hôm như thế, lão Bún lại nhắc cháu: “Sang, Sang… đừng để chúng nó cắn nhau”. Thì ra tên cháu là Sang.

Cái đận làng xóm xôn xao mất chó, mất gà, lão Bún định cho xây một bức tường cao, quây kín gia cư. Lão cho cháu sang mời lão Tộ sàng bàn phá bỏ hàng ô rô giữa hai nhà, lão Tộ ậm ừ: “Vâng… Ông có tiền ông cứ xây, bên tôi cũng được nhờ…”. Lão Bún phân tích thiệt hơn, lão Tộ cứ cười trừ. Bức tường dày 20 phân được xây lên nhanh chóng. Duy chỉ đến chỗ cây bưởi ở gần ngõ thì dừng lại.

Cây bưởi vốn là một kỷ vật nặng tình nghĩa đối với cả hai nhà. Ngày ấy, có một đơn vị thanh niên xung phong về làm đường qua bến sông ở đây. Có một cô Thanh niên xung phong quê Đoan Hùng đã trồng tặng hai anh Bún và Tộ nhân ngày hai chàng nhập ngũ. Hai chàng trai bốc đồng đã chỉ cây bưởi mà thề rằng: Nếu cây bưởi còn sống thì hai anh em sẽ vinh quang trở về. Éo le thay, trong kháng chiến khốc liệt, hàng ngày hai bà mẹ cứ chằm chằm ngắm cây bưởi mà hy vọng. Có đận, nước lụt làm cây bưởi héo đi, lòng hai bà mẹ quặn thắt. Rồi cây bưởi vẫn xanh tươi nhờ sự chăm chút của cả hai nhà. Và rồi, hai chàng Bún và Tộ đều lành lặn trở về. Khi hỏi tìm thì cô gái Thanh niên xung phong nọ đã hy sinh ở một con đường tại một tỉnh miền Trung. Cây bưởi được đặt đúng cõi của hai nhà. Từ ngày bưởi có quả, hai nhà đều vui vẻ chia nhau đầy thân tình.

Lão Bún đích thân sang bàn với lão Tộ. Lão Bún sẽ sàng: “Ông ạ! Nếu xây bức tường thẳng ra ngõ thì phải chặt mất cây bưởi”.

Lão Tộ thủng thẳng: “Vướng thì cũng phải chặt. Biết làm thế nào!”

Lão Bún giãy nảy: “Ấy chết, làm thế thì thật không phải lẽ với người đã khuất; cây bưởi là kỷ niệm, nó là…”.

Lão Tộ buông sõng: “Thế thì tùy!”

Thế là lão Bún cho đổ bê tông cao ngang đầu gối, quây tròn gốc bưởi lại. Cái vòng tròn ấy lấn sang mỗi nhà hơn thước. Lão Tộ ra ngắm rồi cất giọng hanh hách: “Thế này không được! Phải rào lại, rào bằng sắt to ấy. Không thì nhỡ mất cái gì mang tiếng ra…”. Lão Bún xon xón: “Vâng, vâng. Thế ta rào ông nhé, rào cho an toàn ông ạ!”. Thế là một hàng rào sắt L, cao ngang đầu được dựng lên. Người hai nhà vẫn nhìn rõ mặt nhau qua gốc bưởi nhưng không thể trèo qua được. Có việc gì nhắn nhau, hai nhà đều đứng ở gốc bưởi, nói vọng sang.

Mà cũng lạ, trong ba năm hai nhà xa lánh nhau như thế, cây bưởi không ra một bông hoa nào. Lá nó cứ xanh mướt, mặt lá ướt mượt như có dòng nước vừa chảy vào. Đêm đêm những người già trong xóm còn nghe như có tiếng rì rầm của những người con gái. Họ bảo hình như ngày xưa hai chàng Bún và Tộ đều có tình ý với cô gái Thanh niên xung phong ấy, nhưng chưa ai dám ngỏ lời. Tiếng rì rầm ấy là lời cô gái kể lại cho tiểu đội của mình về mối tình thầm lặng của  các chàng thanh niên mới lớn.

Một hôm, cô con dâu cả hớt hải gọi lão Tộ: “Bố! Bố ơi, bố vào mà trông… tường… tường nhà mình”. Lão Tộ sầm sập mở toang cửa buồng con dâu, nhìn lên đầu hồi (cái đầu hồi nhà nằm giáp đất nhà lão Bún). Trước mắt lão, một đường nứt lún dài hơn hai thước, rộng đến ba ly, toang hoác. Lão gầm lên: “Đồ đểu, đồ độc ác đến thế này là cùng…”. Thì ra cái móng nhà ba tầng bên lão Bún đã ảnh hưởng tới cái tường xây 10 bổ trụ của lão Tộ. Thật oái oăm thay, cái nhà mà đã qua 4 đời, chỉ đến đời con lão mới làm được (!)

Lão Tộ quyết chí xây lại nhà. Lão may mắn có nhiều đất ruộng. Vừa rồi, huyện cho giải phóng mặt bằng làm công nghiệp, Lão được đền bù kha khá. Lão không cho vợ con mua sắm gì. Tất cả tiền bạc Lão dốc vào mua vật liệu.

Lão cho mua gạch chở về chất chật vườn chuối. Nhìn những kiêu gạch đỏ hồng lão tủm tỉm. Sờ những cạnh gạch sắc nhọn, lão gật gù. Lão đợi sang xuân, được tuổi sẽ khai móng. Lão đã ngầm nhờ một kỹ sư trên huyện vẽ cho một mẫu mới. Cóc lo, cần thì vay mượn mà làm, sợ gì thằng nào!

Sáng nay, khi vợ con đi làm hết, lão Tộ mới đủng đỉnh dắt xe ra, định lên xã trên, nhờ ông thầy xem gia trạch, chọn ngày khởi công. Làng xóm đang vụ cấy xuân muộn, người lớn ra đồng hết, chỉ còn vài đám trẻ đang chí choé ngoài sân đình. Lão Tộ thơi thới đạp xe đi.

Quãng 9 giờ, có hai kẻ lạ mặt đến trước cổng nhà lão Bún. Chúng lắc lắc cái cổng sắt to đùng. Không có động tĩnh gì. Chúng chuyển sang cổng nhà lão Tộ. Con Mực hộc lên, nhào ra sủa. Một tiếng huýt sáo khêu gợi, một miếng thịt lợn quay được thảy vào. Con Mực quen mùi thịt hôm nào sục mõm ăn. Nó vừa táp táp được hai miếng, mắt đã trợn ngược, mồm sùi bọt, ư ử ư ử… rồi nằm vật ra. Hai thằng gian nhấc bổng tấm cổng tre, bước vào. Một thằng đứng dựa gốc ổi canh chừng. Một thằng nhanh nhẹn kiễng chân chạy vụt vào hè. “Cách” một tiếng. Cái khoá Việt Tiệp mà lão Tộ thường khoe là an toàn tuyệt đối được mở ra. Thắng gian lách mình vào nhà.

Việc chúng hạ con Mực, chúng phá khoá vào nhà quá nhanh. Chúng chắc mẩm cầm chắc số tiền chuẩn bị làm nhà của lão Tộ. Trong mắt chúng đã ánh lên niềm hoan hỷ. Chúng có ngờ đâu rằng: Từ trên tầng ba nhà lão Bún, bên trong những tấm kính đen ngòm ấy, thằng Sang đã nhìn rõ tất cả.

Thằng Sang bối rối. Có mình nó ở nhà… Nó chợt ngoắc con MiLu. Phải rồi! Chỉ có MiLu mới giải quyết được việc này. Nó lẹ làng ra sân sau, kéo cái thang nhôm ở mái bếp, thả qua tường sang vườn sau nhà lão Tộ. Nó khẽ gọi con MiLu đến và dặn dò. Con chó chớp mắt như hiểu cả. MiLu nằm bẹp trên nóc bếp, bò đến chiếc thang. Nó lần lần từng bước thận trọng trườn xuống. Đến những bậc thang cuối, nó hực lên một tiếng trong cổ họng, co cẳng lao thẳng ra sân trước nhà lão Tộ. Thoáng nhìn thấy con chó to như con bê như từ trên trời rơi xuống, thằng đứng gác ở cổng ú ớ, đậy sập cổng lại, vọt đi thoát thân. Vẫn thấy mùi lạ trong nhà, con chó quay lại đứng dạng chân trước giữa cửa, ôm ổm sủa vào.

Đúng lúc ấy, lão Tộ về.

Vào ngõ, vấp xác con Mực, lão đã hoảng hồn. Lão rụng rời chân tay khi cửa giữa nhà lão he hé. Con MiLu vằn mắt tông tốc sủa. Lão Tộ như ngất đi khi lão chạy vào nhà. Cánh cửa tù mà lão cất tiền đã bị phá khoá. Lão thọc tay vào… Ôi chao! Bọc tiền vẫn còn đó. Lão tĩnh tâm và bặm môi gật gù khi có tiếng lục cục trên gác xép gian cạnh. Cái gác ấy là mấy tấm ván gác lên xà nhà phòng khi lũ lụt. Ngày thường thì lỏng chỏng mấy đồ hỏng, đồ thừa vứt lên đó. Lão mở cửa sổ, bắt gặp chiếc thang nhôm lừng lững từ nhà lão Bún sang. Quay lại thấy con MiLu nghếch mõm lên gác xép ư ử… Lão bặm môi gật gù.

Trưa ấy, lão Tộ sai con dâu đi mua gần cân rưỡi thịt ba chỉ về quay. Quay xong, lão bắt thái cỡ 5 lạng, để trong một chiếc bát tô. Lão lục tìm lấy ra ống thuốc chuột Trung Quốc, loại cực độc màu hồng. Lão đổ thuốc vào bát thịt, trộn đều. Lão ngồi xếp bằng, đặt bát thịt có thuốc độc vào lòng, xoay xoay, mắt gườm gườm nhìn con MiLu.

Khi vợ, con và các cháu đã tề tựu đông đủ theo lệnh của lão, lão tu một hớp rượu lớn rồi khề khà: “Bà nó! Bà có biết chúng ta đang sống ở thời nào không?”

- Trời ơi! Ông làm sao thế? Tôi van ông… Ối ba hồn bảy vía ông Tộ ở đâu, ới ba hồn…bảy vía - bà tru tréo.

- Thôi bà im đi! Lão thét. Bà phải biết thời này là thời mở cửa, sống theo cơ chế thị trường - Lão tu một hớp rượu đánh ực - Làm ăn thì dễ đấy, tự do đấy! Nhưng cũng đầy tráo trở, lừa lọc đấy! Ực! Bà có hiểu không?

- Vâng! Vâng tôi hiểu… mà ông… ông cho tôi xin bát thịt trộn thuốc chuột trong tay ông… Ông đưa tôi – Bà xô vào định giằng lấy .

- Hà… hà… bà để mặc tôi. Các con, các cháu, mang dao, mang đòn gánh ra đây – Mau lên!

- Dạ, dạ… - Lũ con lão sợ xanh mắt mèo, tăm tắp làm theo.

- Lão tiếp: Nhà ta nghèo, tứ đại nhà ta nghèo. Có đúng không?

- Vâng, đúng ạ! Đúng ạ!

- Ừ! Nhà ta nghèo nhưng nhà ta sạch. Ta không có thói lừa lọc, không trộm cắp, không tráo trở… đúng không? Mặt lão tê tê, hai gò má giật giật…

Lão chiêu một ngụm rượu và cao giọng: Các anh, các chị, các cháu hãy nghe ta dặn đây: Dù sau có đói rách đến đâu, có khổ nhục đến đâu… cũng không được ăn càn, cắn giậu… như cái thằng nửa Ngô, nửa Sở nằm trên gác xép kia, nghe không?

Hàng chục cặp mắt nhất loạt nhìn lên những tấm gỗ bụi bặm. Trên đó vẫn lặng như tờ.

Lão Tộ đứng phắt dậy, phừng phừng:

- Xuống ngay cái thằng mất dạy kia. Ngỡ rằng học giỏi, ngỡ là có giáo dục. Ai ngờ, mày kết bè, kéo đảng, rủ lũ súc sinh để triệt hạ nhà tao! Xuống!

Có tiếng lục cục. Từ trên gác, một cái đầu bù xù lộ ra. Một thằng người đen nhẻm ôm cột tụt xuống.. Vừa chạm đất, mồm hắn đã rối rít: “Con xin ông! Con cắn cỏ lạy ông”.

- Ồ! Thằng Túc sẹo? Cả nhà cùng ồ lên sửng sốt – Đúng là thằng Túc sẹo ở xóm Gai. Nó đã ngoài 40, đã ba lần vào tù vì tội trộm cắp; có lần bị dân làng đánh cho còn vết sẹo và thành tên đến bây giờ.

Thằng Túc sẹo sụp xuống lạy như tế sao. Con MiLu gầm lên. Lão Tộ ngồi thụp xuống, ôm lấy cái cổ mịn màng của nó. Như chỉ chờ có thể, thằng Túc sẹo vừa leo lẻo: “Con cắn rơm, cắn cỏ lạy ông bà… em xin các anh...” vừa giật lùi ra cửa. Thấy con chó liếm liếm tay lão Tộ, hắn quay đầu, vụt chạy ra cổng. Con MiLu nhướn mình lao theo. Lão Tộ ôm chặt lấy cổ nó, vuốt ve: “MiLu… suýt nữa thì ta giết oan con rồi”.

 Lão Tộ dắt con chó sang trả lão Bún. Cổng nhà lão Bún vẫn khoá. Lão đành dắt con MiLu về bên gốc bưởi. Lão cất tiếng gọi, chẳng ai nghe thấy. Bực mình, lão xăm xăm vào gác bếp, vác cái búa tạ ra. Lão vung búa, đập gục những thanh sắt đã sùi rỉ vàng trông như da cóc. Một lối thông giữa hai nhà được mở ra. Lão đỉnh đạc cùng con MiLu vào cổng nhà lão Bún. Lão Bún đang nằm xem chèo “Bài ca giữ nước”. Đang mơ màng bỗng thấy tiếng búa đập “choang choang…”, lão chạy ra sân. Nhìn thấy mặt lão Tộ  tia tía, lão Bún đã đưa tay ra lại rụt vội lại. Lão Tộ cười hềnh hệch, phô hàm răng đầy xỉn cố hữu ra mà chữa thẹn:

- Hề hề… sang kiếm ngụm chè ngon của ông đây! Hai cặp mắt chằm chằm nhìn nhau như lạ lẫm. Lão Bún bỗng ngớ ra, hỏi một câu dớ dẩn:

- Ơ… Con MiLu… ngỡ nó ở trên gác với thằng Sang…

- Hề, hề… nó là cứu tinh, là hộ mệnh cho nhà tôi đấy ông ạ… hề hê…

Hai lão cùng chạm tay vào đầu con chó, rồi cùng phá ra cười. Y như ngày nào giữa khói bom khét lẹt, họ tìm được nhau, sờ nắn khắp người nhau rồi ha hả cười. Bất giác lão Tộ ngửi thấy một mùi thơm thoang thoảng, mùi thơm quen quen mà cũng xa xăm. Lão ngoảnh mặt ra sau. Cả hai lão cùng ngước lên ngọn bưởi. Hàng ngàn búp hoa chúm chím như ngón tay trẻ sơ sinh đang bung ra, trắng muốt trong các vòm lá. Hai lão cùng hít hà thật sâu. Ôi! Cái hương bưởi ngây ngất này đã mấy năm nay, chẳng ai để ý! Hôm nay sao thơm đến lạ lùng…

Đỗ Hàn

Con lềnh đềnh (truyện ngắn)
Con lềnh đềnh (truyện ngắn)

Trên biển sóng đánh càng mạnh hơn, Hoan thấy một vật đen lao về phía mình, anh quờ tay vơ vội lấy vật đó, không ngờ...

Tin liên quan

Tin mới nhất

“Chồng nhà người ta” gọi tên Lê Anh Nuôi: Mẹ bỉm nhìn mâm cơm cữ chỉ muốn "chốt đơn" ngay ông chồng thế này!

“Chồng nhà người ta” gọi tên Lê Anh Nuôi: Mẹ bỉm nhìn mâm cơm cữ chỉ muốn "chốt đơn" ngay ông chồng thế này!

"Có chồng thế này, sinh cả đội bóng cũng được!" – Đó là câu nói mà nhiều mẹ bỉm xuýt xoa khi thấy Lê Anh Nuôi tự tay vào bếp nấu cơm cữ cho vợ. Không chỉ đơn thuần là những bữa ăn sau sinh, mà từng món ăn anh chuẩn bị còn thể hiện sự quan tâm, yêu thương và chu đáo đến từng chi tiết.