Nguyễn Tiến Thanh, nhà báo và thi sĩ
Nguyễn Tiến Thanh nhà báo, người thao thức với báo chí
Học giả người Israel Yuval Noah Harari, tác giả của cuốn sách Sapiens, lược sử loài người nổi tiếng thế giới, từng cho rằng internet và mạng xã hội là những thành tựu công nghệ to lớn và đầy ý nghĩa. Nó xuất hiện và ngay lập tức xác lập hai thời kỳ lớn của lịch sử: Thời kỳ tiền internet và thời kỳ internet. Quan điểm này vẫn đúng khi áp vào hoạt động báo chí: Có thời kỳ báo chí tiền internet và có báo chí thời internet. Bây giờ đang chính là thời kỳ internet, là lúc mà các nhà báo chính danh và chuyên nghiệp buộc phải lựa chọn: Một là, nhà báo cứ ngồi đấy mà nhớ tiếc thời kỳ tiền internet hoàng kim rực rỡ - khi báo chí chiếm gần như toàn bộ không gian truyền thông, bởi vì nó gần như là nguồn truyền thông độc quyền - để rồi anh bất lực trước mạng xã hội và dần trở thành kẻ tự kỷ trong đời sống báo chí đương đại. Hai là, nhà báo nhập cuộc, chấp nhận sự tồn tại của truyền thông mạng xã hội, nhưng chấp nhận để rồi bị nó tha hóa, nhấn chìm, làm tan biến, hay chấp nhận để cạnh tranh sòng phẳng với nó, để chiến thắng nó bằng sự tái tạo chính mình, để trở lại là dòng chủ lưu trên biển thông tin truyền thông, thì điều đó lại phụ thuộc vào trình độ, bản lĩnh, tầm văn hóa và khả năng “nhận đường” (chữ của Nguyễn Đình Thi) của mỗi nhà báo, mỗi cơ quan báo chí.
Cái tình thế đôi ngả rối bời ấy của báo chí Việt Nam đương đại đã được mô tả và phân tích một cách sáng rõ, mạch lạc, thậm chí riết róng, nhưng cũng... đầy chất thơ, trong tập tiểu luận có tên Thời của tạp chí của nhà báo Nguyễn Tiến Thanh (NXB Văn học, 2021). Cuốn sách gồm bảy phần và một vỹ thanh. Trong đó ba phần đầu: Vong thân trước mạng xã hội, Thuốc gây mê của những kẻ nghiện view, và Đứng trên vai những người khổng lồ có thể được đọc, theo cách hài hước, như một “Bản tố cáo những tội ác của internet và truyền thông mạng xã hội đối với báo chí và cách làm báo truyền thống”. Truyền thống ở đây được hiểu là các loại hình báo chí đã quen và cũ: Báo in (giấy, và cả phiên bản điện tử của nó), báo nói (phát thanh), và báo hình (truyền hình).
Cách làm báo truyền thống ở đây được hiểu như là sự đặc quyền trong việc truyền tải thông tin đến người tiếp nhận, rất ít có cạnh tranh và rất chậm trong độ tương tác với người đọc, người nghe, người xem. Cái “truyền thống” ấy, cả về những loại hình lẫn cung cách vận hành báo chí quen thuộc, đã bị rơi vào một cơn địa chấn, đã khủng hoảng thực sự khi internet và truyền thông mạng xã hội xuất hiện. Nói cho đúng, như cách mô tả với không ít giễu cợt lẫn cay đắng chân thành của tác giả, thì mạng xã hội chẳng cần hùng hổ tấn công báo chí. Nó chỉ làm việc mà nó sinh ra để làm, vậy thôi. Nhưng sự lan tỏa thần tốc của nó, cái thành công diệu kỳ trong việc chiếm lĩnh không gian truyền thông của nó đã khiến cho phần lớn giới báo chí, nhất là báo online, bị sốc, ngợp, choáng, và rồi chạy theo nó như những con thiêu thân bị hút vào quầng sáng đầy ma mị của chỉ số GA (Google Analytics). Nhà báo Nguyễn Tiến Thanh đã bắt bệnh và gọi đó là sự “vong thân và trượt dài đến bờ vực suy đồi” của báo chí; là “bán linh hồn cho mạng xã hội”; là “bám váy hot trend”; là “sự úa tàn của chữ nghĩa”; là sự mất giá của nội dung thông tin giàu chất lượng đồng thời với sự lên ngôi của những thủ thuật tối ưu hóa công cụ tìm kiếm (SEO: Search Engine Optimization); là những tòa soạn thậm chí toàn nhân viên SEO và social chứ không có lấy nổi một phóng viên.
Một bức tranh quá ảm đạm, vì nó quá thật về tình thế của báo chí Việt Nam đương đại. Tuy nhiên ảm đạm không có nghĩa là tuyệt mù sinh lộ. Ở các phần tiếp theo: Cận cảnh và soi chiếu, Nghề và nghiệp, Chìa khóa mang tên khác biệt và Bầu trời trước mặt, con đường dưới chân, tác giả đã chỉ ra và luận chứng một cách khá thuyết phục về “con đường sáng/ sống” của báo chí trong cơn bĩ cực này. Nói gọn, là quay trở lại với giá trị cốt lõi của báo chí, cái mà nhờ nó báo chí mới có lý do để xuất hiện và tồn tại trong đời sống loài người: Nội dung thông tin, chứ không phải nền tảng truyền thông. Nội dung là vua (Content is king). Nhưng đây hoàn toàn không phải là sự quay trở lại một cách cơ học, dập khuôn theo mẫu cũ, vì như thế đồng nghĩa với thói bảo thủ, là đặt chân vào tử địa theo kiểu khác. Mà là quay trở lại bằng cách biết đứng, và đứng vững, trên vai những người khổng lồ (Google, Facebook...), coi đó như những nguồn khai thác thông tin đầy phong nhiêu để có thể tái sử dụng cho mục đích công việc của mình.
Mặt khác, theo tác giả, báo chí cũng cần quan niệm lại và quan niệm khác đi, về giá trị của thông tin và việc truyền tải thông tin: “Bán góc nhìn và quan điểm thay vì bán tin tức”. Điều này hoàn toàn có cơ sở thực tế, vì nếu chỉ chăm chăm chạy theo tin sốt dẻo, báo chí đã thua mạng xã hội ngay từ vạch xuất phát, bởi nó lấy sở đoản của mình ra đấu với sở trường của đối phương. Nhưng nếu: “Trong bối cảnh tốc độ viral (lan truyền) tin tức chóng mặt như hiện nay, việc tiếp cận đề tài chậm lại để làm sâu hơn, giá trị hơn và khác biệt hơn so với những tin tức trên mạng sẽ là một ưu thế vượt trội của tạp chí”.
“Tạp chí hóa báo chí”, cụm từ này vang lên nhiều lần trong cuốn sách, nó thẫm đẫm niềm tin của tác giả vào giải pháp cho sự trỗi dậy và tái khẳng định vai trò dẫn đạo, định hướng của báo chí trong không gian truyền thông hiện đại. Với giải pháp “Tạp chí hóa báo chí”, thay vào những sự kiện rời rạc sẽ là những vấn đề nằm ở bề sâu, quan thiết đến nhiều mặt của đời sống xã hội; thay vào những nhân vật ngẫu nhiên sẽ là những số phận con người khiến công chúng phải xúc động và tỉnh thức; thay vào những tin tức (news) khô khan sẽ là câu chuyện (story) đầy hấp dẫn; thay vào phản ánh sẽ là sự sáng tạo. Tất cả những điều đó sẽ tạo nên sức mạnh mới cho báo chí, thứ sức mạnh mà truyền thông mạng xã hội ít có cơ chạm đến.
Những luận điểm của nhà báo Nguyễn Tiến Thanh trong tập tiểu luận Thời của tạp chí luôn được đưa ra và được bảo vệ bằng chính những quan sát và trải nghiệm của một người trong cuộc, với ba mươi năm đủ cả vinh thăng lẫn bầm dập cùng nghề báo (Tác giả Nguyễn Tiến Thanh từng là phóng viên báo Thanh Niên, rồi Tổng biên tập tạp chí Đời sống & Pháp luật và Người đưa tin trong nhiều năm). Ở một phía khác, những luận điểm ấy càng có sức thuyết phục hơn khi chúng được tác giả tham chiếu từ đời sống thực tế của báo chí nước ngoài, từ những thành bại và chuyển đổi của BBC, The New York Times, The Wall Street Journal, USA Today, The Economist, Forbes, Fortune... Nghĩa là, đây không phải những tâm sự thủ thỉ về vui buồn nghề nghiệp của một người làm báo trong thời điểm báo - mạng ngổn ngang lắm nỗi, mà đây là những nghiên cứu về báo chí mang tính ý hướng mạnh, cho dẫu nó không khoác bộ áo hàn lâm trường ốc, cho dẫu bản thân tác giả cũng khiêm tốn chỉ gọi nó là “những suy nghiệm của riêng tôi”.
Vượt lên trên tất cả những điều ấy, tập tiểu luận của Nguyễn Tiến Thanh ít ra cũng mang lại cho nhiều đồng nghiệp một niềm tin vào tương lai dài hạn của báo chí, một niềm lạc quan cẩn trọng như sự hình dung về mình của chính tác giả: “Một người lữ hành trên chặng đường hướng tới mục tiêu phát triển, trước mặt là bầu trời rộng mở, dưới chân là con đường thênh thang, luôn nhìn lên bầu trời để kiếm tìm cảm hứng, khát vọng, nhưng cũng không quên nhìn xuống con đường để tránh những cạm bẫy và vấp ngã”.

Một số tác phẩm đã xuất bản của nhà thơ Nguyễn Tiến Thanh.
Nguyễn Tiến Thanh thi sĩ, hay là thơ suy tưởng những phương trời viễn mộng
Trong tập thơ mới xuất bản của thi sĩ Nguyễn Tiến Thanh, Viễn ca (Nxb Văn học, 2024), ở những bài hay nhất, tôi tạm gọi chúng là “thơ suy tưởng những phương trời viễn mộng”. Tôi không dám chắc đó là một định tính đầy đủ và chính xác, nhưng nó là cái cảm giác ập đến với tôi ngay lập tức khi đọc bài đầu tiên của thi tập, Viết sáng mồng 1:
“Anh nấu bữa cơm chiều bằng tà dương còn sót lại
trên balcony khu tập thể trần gian
Đợi giao thừa đêm nay
Mở ra một thế giới mới
Trỗi dậy trên hoang vu
Suy tàn trong nồng ấm
Ngày hôm qua, dọn ra, một mâm cơm ký ức
Mây bảng lảng trên đầu như khói bếp
dậy mùi trầm luân
Người thở hắt trên những lời ca tụng
Vì sao vì sao vì sao vì sao
Là câu hỏi
Hay là ánh sáng?
Vọng vang và chiếu rọi đương thời...”
Có thể thấy, những gì ở nơi cao nhất, xa nhất, như ánh tà dương, như mây và các vì sao đều đã được nhà thơ kéo lại, gần gũi hóa, biến chúng thành các vật liệu cho việc nấu bữa cơm tất niên. Tà dương là củi lửa, mây là khói bếp, “vì sao” thì không phải là câu hỏi mà chính là những ngôi tinh tú đang chiếu rọi không gian của đêm nguyệt tận. Cái cảm hứng ấy - ở các nhà thơ cổ trung đại và các nhà thơ tiền chiến lãng mạn thường được gọi là cảm hứng vũ trụ - tiếp tục được thi sĩ triển khai trong những suy tư về thế giới và con người lúc sáng mồng một, theo kiểu của một Arthur Rimbaud “tiên tri thấu thị”. Thế giới bất an, thậm chí điên cuồng, còn định mệnh của con người là buồn bã, đau khổ, chia cắt, hoang mang, và:
“Một lễ hội thả thính vĩ đại trên ao, hồ, khe, suối
Đầm lầy và tất cả các đại dương
Sáng tạo mắc câu trong không gian nặng mùi hổ thẹn
Nửa đời tóc hóa rong rêu
Môi cười, mà mắt vẫn hiu quạnh buồn”
Bài thơ khép lại bằng tâm trạng buồn, thể hiện chân thực qua ánh mắt - cái cười trên môi chỉ là giả tưởng - ánh mắt của một người đã vào độ tri thiên mệnh, “nửa đời tóc hóa rong rêu”, trải qua nhiều sóng gió biến thiên cuộc đời và cũng hứng chịu không ít những vết thương chí mạng từ số phận và lòng người. Nói chung, buồn là một phẩm chất thường trực của những thi sĩ đích thực: buồn trong không gian, buồn trong thời gian, buồn giữa nhân quần đông đúc và buồn ngay cả khi đối diện với chính mình. Vì thế ở đây có hai hệ quả: 1, người làm thơ mà thơ lúc nào cũng vui mừng hớn hở thì chỉ nên làm cán bộ tuyên truyền chứ không thể là thi sĩ; và 2, nỗi buồn của thi sĩ chưa khi nào tắt, cho nên nó cũng chẳng cần phải được phục sinh. Nỗi buồn, cảm giác buồn luôn ở đó, như một phẩm chất thơ Nguyễn Tiến Thanh, hoặc như một mã gen di truyền, thậm chí như một “thú đau thương”.
Nguyễn Tiến Thanh viết riêng một bài thơ có nhan đề là Hỏi buồn, liệt kê rất nhiều buồn trên cơ thể và trong tâm não con người, cũng như rất nhiều buồn trong không gian tự nhiên và không gian đời sống: môi buồn, tóc buồn, mắt buồn, tay buồn, chân buồn, tim buồn, mưa buồn, nước buồn, sông buồn, đò buồn, biển buồn, cánh buồm buồn, giọt sương buồn... Rồi, sau khi đã thể hiện một mỹ học của nỗi buồn, nhà thơ tự đặt câu hỏi cho riêng mình, kiểu câu hỏi không cần lời giải đáp:
“Buồn là tê tái miên man?
Buồn im tháng đợi, buồn vang năm chờ?
Tình buồn, ta trót làm thơ
Ta buồn, tình có thờ ơ với buồn?
Buồn là vui giữa vô thường
Hay mê mải cuối con đường mù sương?
Một mai giã biệt nhé buồn
Còn nghe chớp bể mưa nguồn tiễn đưa...”
Nguyễn Tiến Thanh khởi nghiệp thơ từ phong trào thơ sinh viên ở các trường đại học Hà Nội cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, những năm mà sự xám xịt của cuộc sống lập tức biến mất, chỉ còn lại những thăng hoa của thơ ca và cảm xúc ngất ngây bùng nổ mỗi khi các đêm thơ ký túc xá khai cuộc. Những năm ấy tuổi trẻ yêu thơ, say thơ đến quên cả cái đói đang không ngừng cào cấu dạ dày. Nhiều bài thơ Nguyễn Tiến Thanh viết trong khoảng thời gian này hiện vẫn có những người thuộc nằm lòng. Và tinh thần của chúng - say đắm lãng mạn lẫn ngông cuồng phá cách - qua quãng cách thời gian mấy chục năm, chừng như vẫn còn hắt ánh hồi quang đến tận bây giờ. Này là bài Lá rụng xuống sân trường năm 88.
Cái “vết tích” tâm hồn một thuở đầu xanh tuổi trẻ đầy bồng bột ấy của Nguyễn Tiến Thanh, theo một cách nào đó khác, tôi còn nhận thấy ở một bài thơ có tên: Nhớ rất nhiều như quên. Tôi sẽ dẫn toàn bài:
“Người post vào thương nhớ
Cơn mưa rơi bất ngờ
Ta nghe buồn vô cớ
Ngập một chiều ấu thơ
Bây giờ mưa đã thưa
Mùa không tên bỏ lại
Những comment người vừa
Cắt qua miền tê tái
Bây giờ nghe tóc úa
Nhớ rất nhiều như quên
Tuổi cũ vàng trong lá
Hoa niên rụng trên thềm
Người về like tình muộn
Bụi đời xưa áo phai
Ta follow ảo mộng
Bảng lảng trên dại khờ”
Đây là bài thơ năm chữ, lãng mạn, có giọng điệu phảng phất giọng điệu thơ Nguyễn Tất Nhiên, một trong những thi sĩ miền Nam cũ mà Nguyễn Tiến Thanh rất yêu mến. Lãng mạn, tình tứ, da diết, thậm chí tê tái nữa, nhưng đọc lên vẫn thấy sự tinh nghịch đặc trưng của tuổi trẻ, bởi lẽ Nguyễn Tiến Thanh đã khéo gài khéo trộn vào một văn bản sầu tình những chữ rất thời thượng vốn thuộc về hoạt động tương tác trên không gian mạng xã hội: post, comment, like, follow, khiến người đọc thơ (như tôi) phải vừa buồn vừa tủm tỉm cười. Triết gia J.P. Sartre, trong tiểu luận có tên Văn học là gì? từng phát biểu, đại ý: nhà văn (xuôi) là người sử dụng chữ, còn nhà thơ đích thực là người chơi với chữ. Há chẳng đúng sao, trong trường hợp này?
Thơ Nguyễn Tiến Thanh trong tập Viễn ca, tôi nhấn lại ý đã nói ngay từ đầu, là thơ suy tưởng những phương trời viễn mộng. Những phương trời viễn mộng ấy sẽ thành tựu khi, bằng liên tưởng và tưởng tượng, nhà thơ đã kết nối những sự vật, sự việc, tâm trạng đời thường, mang tính chất cá nhân hóa, với tất thảy những gì thuộc về phạm trù cái xa xôi, ảo diệu để làm nên thi ảnh lạ. Thực hiện điều này cần phải có một giả kim thuật ngôn từ, và Nguyễn Tiến Thanh đã thực hiện được trong khá nhiều bài thơ. Bài Hoang tưởng chẳng hạn, tôi sẽ dẫn toàn bài:
“Chiều nay
Cơn mưa nào lang thang
Chiếc xích lô cô đơn
Lăn bánh qua mùa thu góa bụa
Ngoài phố có rất nhiều nỗi nhớ
Rơi vàng mỗi lối heo may
Thì đâu dám trách chi trời xanh thế
Gió rất gầy và ai hát xa em
Thơ, máu rỏ ven đường thập tự
Ta, cô đơn đầy ly ca phê đen
Đắng đến nỗi ngàn đêm mất ngủ
Rồi lá vỡ dưới chân mười sáu tuổi
Tờ lịch vèo bay giữa quỹ đạo luân hồi
Vòng quay cuối thời gian về cát bụi
Trái đất nằm phơi rốn sơ sinh
Tênh hênh niềm sỏi đá
Mặc chiều nay
Chiều nay
Cơn mưa buồn lang thang
Chiếc xích lô cô đơn
Lăn bánh qua mùa thu góa bụa
Ở ngoài phố có rất nhiều nỗi nhớ
Cứ rơi vàng mỗi lối heo may”
Trên trang cá nhân của mình, có lần Nguyễn Tiến Thanh đã chia sẻ những suy nghĩ của anh về một vấn đề bản thể luận mỗi khi ta bàn đến thơ: Thơ là gi? Anh trả lời theo cách phủ định, đại ý: thơ không phải là kể chuyện, muốn kể chuyện hãy đi viết tiểu thuyết; thơ không phải là triết lý, muốn triết lý hãy đi làm nhà tư tưởng; thơ không phải là thuyết pháp, muốn thuyết pháp hãy đi làm giáo sĩ. Tóm lại, thơ không phải con lừa để người ta chất lên lưng nó đủ gánh nặng nhọc. Thơ chỉ là thơ thôi, là cảm xúc, là ngôn ngữ, là nhịp điệu, là khả năng tạo sự cảm thông chia sẻ giữa những tâm hồn người. Tôi đồng tình với quan điểm này, chỉ hơi khác ở một ý: có thể thơ không phải là triết lý và nhà thơ cũng không cố tình triết lý, thế nhưng mỗi khi anh suy tưởng về “những phương trời viễn mộng”, anh thiết lập sự kết nối giữa cái ở gần và cái ở xa và giữa những thực thể không đồng chất, thì ngay lập tức chất triết lý đã xuất hiện, thông qua hệ thống thi ảnh. Tôi lấy một ví dụ ngẫu nhiên, bài thơ “Giấc mơ tình yêu”:
“Khi chia tay
Người bảo rằng: tình yêu trói buộc giấc mơ
Bằng sợi dây run rẩy và buồn
Một tiếng thở dài
Thít chặt ban mai
Lúc gặp lại
Người thổn thức
Giấc mơ là một cánh diều
Chỉ bay được nhờ sợi dây tình yêu
Qua rất nhiều năm tháng
Chẳng lẽ chúng ta không hiểu rằng
Tình yêu là một giấc mơ
Dù không bao giờ giấc mơ
Ngồi dậy sau một đêm dài
Nói những lời cay đắng
Không bao giờ tình yêu
Bừng tỉnh
Nói lời biệt ly
Và rời xa ta”
Thậm chí trong tập Viễn ca này, còn có những bài thơ mà chất triết lý nổi lên như là phẩm chất thứ nhất, và làm thành một thi sĩ Nguyễn Tiến Thanh khác hẳn. Bài thơ có tên là Đường thẳng chẳng hạn. Cả bài thơ là những băn khoăn nghi vấn của một lữ khách về con đường mà mình đang đi, ở đây là đường đời. Anh ta đi đường thẳng, như một định mệnh, và khá yên ổn. Nhưng đột nhiên anh ta lại nghĩ đến lối rẽ: “Tại sao không chọn một lối rẽ/ Mất gia tốc và quán tính/ Mất thói quen và mất ngôn ngữ/ Nhưng sẽ được gập ghềnh và bụi rậm”. Vấn đề nhà thơ đặt ra ở đây có lẽ là: cứ đi con đường quen thuộc để dẫn đến cái đích chắc chắn nhưng nhàm chán, hay mạo hiểm chọn ngã rẽ để được sống khác đi, được hồi hộp và lo âu trước những khả năng và kết quả còn chưa biết. Và rồi, sau khi đã cân nhắc chán chê, nhà thơ kết luận rất bất ngờ: “Đường thẳng và lối rẽ/ Xa lộ và bụi rậm/ Đều không phải thứ ta cần/ Cuối cùng/ Ta chỉ cần/ Một chỗ nghỉ chân”. Những băn khoăn nghi vấn về con đường mình đang đi hoặc có thể sẽ đi ấy, như trong bài thơ, hiểu rộng ra, là những băn khoăn về ý nghĩa cuộc đời và việc sống trên đời. Đây chính là một đại tự sự đã từng bị đánh gục bởi một câu hỏi: “Ai lại đi hỏi vì sao cái lá cây nó lại xanh? Xanh như thế thì để làm gì?”. Còn Nguyễn Tiến Thanh thì trả lời theo cách riêng của anh: “Cuối cùng/ Ta chỉ cần/ Một chỗ nghỉ chân”.
Viễn ca của Nguyễn Tiến Thanh gồm 39 bài thơ được anh viết ở giai đoạn sau này, sau khi đã xuất bản cùng lúc hai tập thơ Loạn bút hành và Chiều không tên như vết mực giữa đời mấy năm trước. Cái chất tinh nghịch, ào ạt, phóng khoáng đã bớt đi, nhưng bù lại, tập thơ mới của anh thêm sự giàu có về chiều sâu của những suy tưởng, cái khác lạ của ngôn ngữ và hệ thống thi ảnh. Nguyễn Tiến Thanh không chủ trương cách tân thơ, thậm chí thơ anh còn nghiêng nhiều về phía cổ điển. Thế nhưng đọc thơ anh luôn cảm nhận được sự mới mẻ nào đó, sự mới mẻ trong thơ của một người thơ không ngừng đào sâu tìm kiếm chính mình. Và không ngừng suy tưởng về những phương trời viễn mộng.

Tại tọa đàm "Thơ Nguyễn Tiến Thanh trong sự vận động của thơ Việt Nam đương đại", do Hội Nhà Văn Việt Nam và Viện...
Bình luận