“Gọi quê” - Phù san thơ Phan Văn Ấu
Có bản sắc trong thơ đã là rất khó, nhưng chọn lối nào để tới được mình, lại là câu hỏi không dễ trả lời với người cầm bút. Sinh ra và gần như cả đời gắn bó với sông Đáy quê hương, tác giả Phan Văn Ấu đến với thơ bằng con đường phù sa. Và chính trầm tích phù sa ấy đã làm nên mùa thơ “Gọi quê” của anh.
Năng lượng thơ Phan Văn Ấu khởi nguồn từ miền “thương nhớ cánh đồng”, từ duy lý và duy tình, từ đục trong nào cũng thành sóng sông quê. Rặng cúc tần, lời của cau, sáo diều, trâu chọi, cấy đêm…, tri ân phù sa, thơ anh chín trong màu rơm rạ. Một thoáng chiều quê như bức tranh hoài niệm, lưu giữ hồn quê, điệu nói, điệu tâm hồn dễ gợi liên tưởng phong vị thơ Đoàn Văn Cừ trong Chợ Tết: “Bên song cửa, mắt hoàng hôn lưu luyến/ Níu bờ vai cô hàng xóm sang chơi/ Bầy chim sẻ náu mình trưa nắng/ Giờ vội vàng lặn ngụp trước hàng cau/ Sân thư thái gấp mảnh chăn hoa cũ/ Đèn tầu bay hoa nở dọc đường trời”. Thơ đến từ những chuyện dung dị đời thường. Chữ nghĩa định vị được căn tính trong thơ, đó là căn tính văn hóa lúa nước.
Đứng trên mảnh đất ông cha để lại, mà ngơ ngác làng hay phố, phố hay làng, nhà thơ như muốn gọi về hồn quê thôn dã: “Giếng làng đâu/ Mẹ dạy con gánh nước/ Cúc tần đâu/ Tre làng xanh xứ khác/ Đồng cạn màu xanh/ Ao chuôm lên mặt/ Hồn xưa xa khuất/ Thỉnh thoảng mới lẻn về trong đêm/ Quê, như trẻ buổi đầu học viết”. Thực ra, nỗi niềm này, tâm trạng này đã xuất hiện khá nhiều trong thi ca. Nhưng viết như thế nào, câu hỏi ấy dành riêng cho sáng tạo, câu hỏi ấy để khác biệt mình với người khác. “Ao chuôm lên mặt”, tôi thích cách nói này của nhà thơ cùng tuổi.
Tập thơ “Gọi quê” của tác giả Phan Văn Ấu.
Cảm thức thời gian trong thơ Phan Văn Ấu khá sâu đậm. 11 bài thơ viết cho 11 tháng trong năm. Chỉ riêng tháng sáu không được nhắc tới (?). Đọc những bài thơ này, tôi chợt nhớ Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng. Trò chuyện với thời gian, ở đây, nhà thơ như người kể chuyện đời, kể chuyện làng, nhật ký thơ nhưng được ghi lại dưới hình thức tình tự trữ tình: “Chín rộ mùa lễ hội/ Cầu xin/ Sám hối” (Tháng Hai), “Nghiêng cây gạo bìa làng/ Ánh đỏ gọi cửa trời mở hạ” (Tháng Ba), “Then cài năm khép lại/ Chân trời về trước mặt” (Tháng Chạp)”…
Trong thơ, cách nhìn và cách nói sẽ tự trả lời cho câu hỏi: Bạn là ai? Bạn đến từ đâu? Thơ Phan Văn Ấu là sự giao thoa giữa cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại. Thơ giàu sự sống làng quê, giàu suy tư chiêm nghiệm. Có những điều không xa lạ của ngày thường, nhưng khi hiện lên trong thơ anh lại mang đến một chiều kích khác của điểm nhìn, của tâm thức sống đậm, của sự khác lạ trong biểu đạt: “Mai làng vào vụ gặt/ Lúa chín đầy đồng mà con gái thì vơi”, “Chiều ba mươi tết/ Ta tháng Chạp nảy mầm về thuở trước”, “Mẹ chắt xanh vào mực/ Mong một ngày con cháu vẽ trời cao”.
Sự kết hợp chữ bất ngờ tạo ra nhiều từ mới, từ lạ: Ngọn trưa, ngọn mình, ngọn ngày, ngọn trời, tham mắt, cạn tóc, cạn mắt, mắt nguội, tóc ngã, ngày nát, đêm vụn… Bên cạnh trữ tình, là những câu thơ ý niệm, là thế sự. Song hành với cảm xúc, là phẩm tính trí tuệ trong thơ. Trên hành trình thơ Phan Văn Ấu, nhiều câu vượt qua bài: “Biển tạc vào người”, “Miếng trầu đỏ hoàng hôn”, “Chùa ngân chuông thẳm”, “Đắp kín chăn mây”, “Giàu nhanh như lũ quét”, “Sông nằm phơi mình ôm lục bình mắc cạn”, “Tóc mình trắng hay thời gian bạc”, “Ngày mới cho bao người, có kẻ lại đêm”, “Ô tô rát ruột đường làng”…
Trong mảng thế sự, dường như anh không ưa lối nói vòng vo uyển ngữ. Thơ đối diện với thực tại. “Thánh đói” qua nét vẽ giễu nhại: “Khói nhang bay/ Hương thơm ngài chia đều cho tất cả/ Vào chùa/ Lẫn nhau hiền – mạt/ Ra không chung lối/ Tiếng cười ngài thừa/ Tâm đói?”. “Đất và người” trở thành điểm nóng nhức nhối ở nông thôn. Và trong thơ anh không ít lần “Đất khóc”: “Chiến tranh/ Đất can trường nhân hậu thủy chung/ Mở lòng che chở/ Đất là người/ Sau chiến tranh ai biết/ Bao nhiêu sư đoàn đất hi sinh/ Đêm qua đất khóc/ Rũ bản năng nằm trơ trọi lên sàn”, “Bao dự án trá hình/ Những tấm biển cắm lên trên bao nắp ván thiên”.
Đôi khi thơ Phan Văn Ấu vừa có cái nhìn của một “lão nông tri điền”, vừa có biểu đạt của cảm thức phản tư, triết luận: “Bỏ hẳn đường cày/ Không rát tai tiếng vắt/ Trên mặt sới nhận thúc giục hung hãn/ Trung thành đến mê/ Đâu biết giã hội là ngửa lưng lên phản” (Trâu chọi), “Biết thân mình chỉ là tơ bẹ/ Nhận máu từ nước mưa trời/ Vẫn gạn chắt dồn lên thơm ngọt/ Sẵn lòng nơi thiêng/ Và tiễn người đi không ở lại kiếp người” (Chuối), “Đêm vắng sao/ Mặt đất mọc ngày?” (Sao mặt đất). Không câu nệ vào vần, thậm chí cá biệt có bài như sự thử nghiệm của thơ văn xuôi, hoặc có câu như diễn ngôn của tối giản. Tuy vậy, thơ anh chưa thoát khỏi tuyến tính. Sự dùng dằng ấy khiến “Gọi quê” như đứng giữa các đường biên: truyền thống và hiện đại/ đương đại, thi pháp cũ và thi pháp cách tân, đổi mới…
Hình thức là như vậy, nhưng nội dung lại phụ thuộc căn cốt tạng người. Sen không thể thiếu, không thể xa bùn, dường như tạng thơ Phan Văn Ấu gắn liền thổ nhưỡng, khẩu khí sông quê. Viết về cây lúa hay viết về cánh đồng, suy cho cùng, cái hay của thơ không phụ thuộc vào độ lớn hay nhỏ của đề tài. Và câu chuyện đề tài, cũng không còn được nhắc tới nhiều trong sáng tạo của đời sống văn học đương đại. Chính cái hương bùn đã bén rễ bền gốc thơ anh. Phù sa đã gọi xanh nhiều liên tưởng, suy tưởng bất ngờ: “Những ngôi sao như thóc gạo trên mắt giần của mẹ”, “Mùa gặt/ Những hạt thóc vàng/ hân hoan như gái sang sông”. Tuy đã đọc khá nhiều bài thơ viết về những ngày đói của thời bao cấp, nhưng đến khi đối diện với “Mùa của mẹ”, tôi nhớ mãi khổ thơ này của anh. Có cả hình bóng gia đình mình trong đó: “Con biết đâu thời ăn cơm độn/ Đến đôi đũa cả kềnh càng cũng chẳng dính cơm/ Mẹ ron rón mãi những hạt thơm/ Nhường cho con và vun vào bát bố”. “Đôi đũa cả”, “ron rón”, “hạt thơm”, “vun vào”, chữ của thôn hương, của cánh đồng gợi bao điều sóng sánh. Không ồn ào, thơ khởi nguồn từ đó, thấm thía nghĩa tình, lặng lẽ giữa nhân gian.
Thế mạnh của thơ Phan Văn Ấu thường ở câu. Nhưng Con đường là bài thơ hay trong sự trọn vẹn tổng thể của bài. Có tứ mà không tán, không tản mạn: “Ngọn ngày lên giàn đỏ/ Anh thức lại tiếng lòng/ Đêm qua trên con đường/ Em và long lanh nước mắt/ Đêm nay bên nhau/ Ta không ngắm sao trời suông nữa/ Những vì sao không tới mắt…/ Em có hay, trăng đẩy thời gian đi/ Thời gian dồn trăng đến/ Gọi chúng mình/ Vây bủa quanh ta/ Thời gian không ngưng đọng”. Nếu 11 bài thơ viết cho 11 tháng trong năm, nghiêng về phía nhật ký, thì Con đường lại mở ra một không gian khác của cảm niệm. Mới trong lối nói, bài thơ hài hòa cảm xúc và trí tuệ. Vừa thực vừa mơ hồ. Chiêm nghiệm và suy tư. Ám ảnh hiện sinh. Đó là diễn ngôn của cảm thức thời gian thân phận, khắc khoải phận người.
Thơ sống trong ngôn ngữ, vì thế sự làm mới ngôn từ như tạo ra một sinh quyển mới, một đời sống mới cho thơ. Chống lại nguy cơ han gỉ từ sự đơn điệu nhàm chán, nhưng nếu chữ cầu kỳ quá dễ vô tình đánh mất sự tự nhiên, thanh thoát cần có trong thơ.
Thơ Phan Văn Ấu vang vọng cuộc gọi trở về. Làng quê trong thơ anh có cái gì trống vắng. Cuộc sống mưu sinh, những cảnh ngộ, những nỗi niềm, biết bao người cứ biền biệt xa quê: “Về đi/ Cùng ngắm mẹ nhai trầu/ Cha thấp thoáng hành trang những ngày cuối”. Về đi! Về đi!... Đêm lại trắng, vọng về trong thao thức, chiếc vé khứ hồi của hiếu thảo, của bản thể rưng rưng… “Cùng ngắm mẹ nhai trầu”, thơ là hơi thở, dung dị mà thấm thía, hình ảnh ấy là địa chỉ cho thơ.
Thấu cảm sự đời, sự làng, chữ nghĩa ý vị, rất chú ý đến lối nói, đó là thế mạnh, là sức sống của “Gọi quê”. Xin được kết lại bài viết bằng câu thơ anh dành cho mẹ. Ám ảnh và cảm động. Mới và lạ trong biểu đạt, một câu thơ rất Phan Văn Ấu:
“Mẹ lại nhẩm đời mình trên lưỡi cuốc”.

Nhà thơ Trần Quốc Thực (1948-2007) quê Ý Yên - Nam Định. Sinh thời ông đã xuất bản 4 tập thơ: "Miền chờ" (1989), "Nét...
Bình luận