Phạm Ngũ Lão – Danh tướng văn võ song toàn
Xuất thân nông dân, với tài năng của mình, Phạm Ngũ Lão trở thành danh tướng thời Trần. Phạm Ngũ Lão còn rất thích làm thơ và có tài ngâm thơ, đặc biệt là một số tác phẩm như “Thuật hoài” của ông thể hiện rõ nét tầm vóc của một vị tướng hiền.
Huyền Trang: Thưa nhà văn Phùng Văn Khai, ông có thể chia sẻ về cuộc đời và sự nghiệp của danh tướng Phạm Ngũ Lão?
Nhà văn Phùng Văn Khai: Tôi nghiên cứu tương đối kỹ về triều Trần, đặc biệt là các danh tướng triều Trần trong ba lần đánh giặc Nguyên Mông. Có bốn danh tướng tôi cho là xuất sắc nhất và cơ bản các sử gia cũng xếp như vậy. Thứ nhất là Trần Quốc Tuấn - vị thánh tướng hiền minh của dân tộc. Thứ hai là Trần Khánh Dư - vị mãnh tướng khi đánh trận Vân Đồn tiêu hủy quân lương của Thoát Hoan. Thứ ba là danh tướng Phạm Ngũ Lão và thứ tư là danh tướng Trần Nhật Duật.
Trong các vị tướng của triều Trần, có một vị tướng ngoại tộc đó là Phạm Ngũ Lão, ông xuất thân từ nông dân, ban đầu là gia tướng của Trần Quốc Tuấn. Khi đó các tướng lĩnh, tôn thất nhà Trần thường có các gia thần, gia tướng, tao nhân mặc khách là quan văn để hỗ trợ mưu kế, những dũng tướng như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão là gia tướng.
Tuy nhiên sau đó, Trần Quốc Tuấn đã tiến cử Phạm Ngũ Lão là tướng của quốc gia. Từ gia tướng trưởng thành đến tướng quốc gia là một sự rất tin cậy. Nhưng tại sao một người xuất thân từ nông dân, vùng quê Phù Ủng chiêm trũng đất Sơn Nam hạ xưa (nay là Hưng Yên) trở thành một vị tướng lừng danh trong lịch sử dân tộc như vậy? Các lần đánh Nguyên Mông thứ hai, thứ ba, các lần bình định Ai Lao, Chiêm Thành đều có công rất lớn của Phạm Ngũ Lão. Khi Trần Quốc Tuấn mất, Phạm Ngũ Lão giữ chức Thượng tướng quân. Ngày xưa chức Thượng tướng quân chính là tổng chỉ huy quân đội, tiết chế các quân thủy, bộ.
Bản thân Phạm Ngũ Lão có kỳ duyên khi gặp được Trần Hưng Đạo trong một cuộc ngài đi kiểm tra vùng bản doanh Vạn Kiếp. Khi trở về kinh thành Thăng Long bắt gặp trên đường làng quê vùng chiêm trũng một chàng trai đan sọt. Binh lính quát cũng không lui, cầm giáo xiên vào đùi cũng không nhúc nhích. Thấy làm lạ hỏi Phạm Ngũ Lão trả lời đang mải nghĩ khi giặc Nguyên Mông lần này đến đông như vậy, mạnh như vậy không hiểu là Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương sẽ đánh giặc thế nào? Hưng Đạo Vương lấy làm rất lạ. Tại sao một thanh niên lại suy tư việc quân việc nước như vậy? Ngài bèn cho xử lý vết thương, băng bó sau đó mời lên xe. Thấy một người kỳ lạ như vậy ngài cho về kinh thành.
Trên đường vừa đi thuyền vừa đi ngựa về Thăng Long, Trần Quốc Tuấn trò chuyện, thử tài và rất tâm đầu ý hợp với Phạm Ngũ Lão. Trần Quốc Tuấn lúc đó dưới trướng của ngài có nhiều mưu sĩ và tướng giỏi. Mưu sĩ có Trình Dũ, Phạm Lãm, Ngô Sĩ Thường..., các tướng võ có Yết Kiêu, Dã Tượng, Cao Mang, Đại Hành, Nguyễn Địa Lô,… Khi đàm đạo thấy Phạm Ngũ Lão trả lời ứng biến rất tốt, Trần Quốc Tuấn quyết định sẽ tiến cử thẳng cho triều đình làm chỉ huy quân cấm vệ. Phạm Ngũ Lão tính rất cẩn thận. Ông xin với Trần Quốc Tuấn cho về quê một tháng vừa để từ giã gia đình vừa luyện tập võ nghệ cũng là đức tính nhún nhường. Có thể thắng được ngay nhưng mà lúc đó mà làm bẽ mặt những cấm vệ quân khác thì không phải là đức của vị tướng. Tương truyền ông nhảy sạt mấy cái gò và mấy cái ao bây giờ vẫn còn trên đất Phù Ủng, đó là những truyền thuyết dân gian về ông.
Tranh minh họa cảnh Phạm Ngũ Lão đang ngồi đan sọt thì bị lính dùng giáo đâm vào chân.
Tôi cho rằng thành công lớn nhất của triều Trần trong đó có đóng góp của các danh tướng như Phạm Ngũ Lão nằm ở những điểm như sau: Thứ nhất là kế sách để thắng giặc Nguyên Mông. Nếu đánh năm ăn năm thua, dàn quân đánh trực diện là mắc mưu giặc. Cho nên ai sẽ là người lui binh? Ai là người phải đánh trận đầu để thua? Trần Quốc Tuấn rất không muốn đánh ở trên bộ bởi vì quân Thoát Hoan tràn sang ào ạt hai đường thủy bộ Thoát Hoan tuyên bố ai trích vào tay chữ “Sát Thát” sẽ chặt hết. Sẽ chặt tay bày từ cửa ải Quỷ Môn Quan đến Thăng Long để binh lính run sợ. Trước sự ngang ngược như vậy, Trần Quốc Tuấn buộc phải đánh một trận trên cửa ải để yên lòng vua, yên lòng quân và cũng là để Thăng Long có thời gian thanh dã, để rút lui về các chiến trường khác đã được chuẩn bị. Cử Phạm Ngũ Lão lên ải đánh mà đánh một trận rất ác liệt, chém được rất nhiều binh tướng giặc, khiến quân Nguyên Mông trờn trợn trước sức mạnh Đại Việt. Đánh xong, ngay trong đêm Phạm Ngũ Lão cho đốt cửa ải Nội Bàng rút về Vạn Kiếp, sau đó xuống thuyền về Thăng Long.
Một trận đánh mang tính thăm dò thực lực đôi bên, khả năng tác chiến đôi bên đã được giao cho Phạm Ngũ Lão. Thời gian ngắn sau, quân Toa Đô phá vỡ ải Nghệ An, kẹp quân ta bằng thế gọng kìm từ trong Nghệ An ra. Khi đó Nguyên Thế Tổ xuống chiếu lệnh Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra hòng bắt sống vua tôi nhà Trần. Trước đó, Trần Quang Khải được cử vào trong Nghệ An giữ ải thì quân của Trần Kiện, Trần Lộng đã đầu hàng khiến ta mất hàng vạn quân. Trần Quang Khải cầm cự trong tình thế rất khó khăn, khi đó ta buộc phải cử một cái tướng rất giỏi vào, Trần Hưng Đạo đã cử Phạm Ngũ Lão dẫn một đội binh tinh nhuệ dưới quyền vào đó đánh những trận chiến để lừa giặc, cho hai gọng kìm chập vào nhau ở Thăng Long, quân ta luồn ra phía sau thì vô hình quân Nguyên Mông bị ở thế bao vây lơ lửng. Trong tất cả các lần đánh Đại Việt, mỗi khi quân Nguyên Mông ở vào thế lơ lửng tức là sắp thua, sẽ cạn lương, phải đứng trước hiểm họa thời tiết mùa mưa, rồi hết lương thực, không quen thổ nhưỡng,… Khi đó, trong các tướng giỏi nhất đánh những trận như Hàm Tử, Tây Kết, Chương Dương... đều là Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải cùng các tướng khác nữa. Phạm Ngũ Lão cầm quân trên bộ, Trần Nhật Duật lĩnh thủy quân và đánh vào giải phóng Thăng Long đều có công rất lớn của hai ông.
Tôi cho rằng Phạm Ngũ Lão không những là danh tướng của vùng đất Hưng Yên mà chính là danh tướng của Thăng Long, Hà Nội, bảo vệ Thăng Long, bảo vệ kinh thành, bảo vệ đức vua, đặc biệt là bảo vệ nhân dân chính là danh tướng Phạm Ngũ Lão. Sau này ông được quân và dân yêu kính đến khi mất vua nghỉ chầu năm ngày để thấy niềm tiếc thương vô hạn. Nhưng sự tiếc thương lớn nhất chính là trong lòng nhân dân, nhân dân lập đền thờ ông ở các nơi như Hưng Yên, Hải Dương, thành phố Hà Nội. Ông được phối thờ trong các đền thờ Trần Quốc Tuấn.
Từ thân thế cuộc đời sự nghiệp của Phạm Ngũ Lão, tôi cho rằng chính là góp nên vẻ đẹp văn hóa của người Việt, chúng ta tự hào là người Việt hôm nay có những võ công có văn hiến, có danh tướng, danh thần, danh nhân. Tôi cho rằng các chương trình chúng ta thực hiện về danh nhân đất Thăng Long chúng ta phải có những biên độ rộng, có thể anh sinh ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hưng Yên, Hà Tĩnh nhưng anh vẫn lập công cho Thăng Long, anh vẫn gìn giữ kinh thành, giúp vua giúp nước thì điều đấy là đáng quý.
Thủ đô Hà Nội là vùng đất của cả nước chứ không phải là của riêng ai. Cho nên tôi vẫn mong muốn rằng phải có những thống kê, sự tri ân với các danh nhân có công với Thủ đô, có công với Thăng Long - Hà Nội thì chúng ta mới chấn hưng và phát triển văn hóa toàn diện chứ đâu phải là chúng ta rành mạch từng vùng quê, vùng đất nó sẽ hẹp hơn nhiều. Bảo vệ Thủ đô là từ miền Nam vừa rồi bão lũ như vậy cứu trợ từ miền Nam ra, vẻ đẹp của người Việt phải đẹp ở đó. Chính từ tư duy như vậy, thờ phụng của nhân dân như vậy tôi cho rằng là chúng ta trong bước đường trưởng thành, trong buổi chấn hưng và phát triển văn hóa để cân bằng đời sống chúng ta cần tri ân các danh nhân bằng những chương trình cụ thể, những việc làm cụ thể, những cuốn sách cụ thể, bộ phim cụ thể chúng ta sẽ thấy được vẻ đẹp của cuộc sống và sẽ bình an, bền vững hơn trong công cuộc hôm nay.
Nhà văn Phùng Văn Khai.
Huyền Trang: Vâng thưa ông, có thể nói với vai trò và những đóng góp của danh tướng Phạm Ngũ Lão là rất to lớn trong việc bảo vệ dân tộc lúc bấy giờ. Ông đánh giá như thế nào về điều này?
Nhà văn Phùng Văn Khai: Tôi cho rằng Phạm Ngũ Lão là một danh nhân văn hóa quân sự. Chúng ta có những danh nhân văn hóa về chính trị, về văn hóa thuần túy, về văn hiến, về văn học nghệ thuật, nhưng chúng ta cũng có những danh nhân văn hóa quân sự. Chúng ta hãy mạnh dạn dùng từ đó. Bởi vì sao? Nếu không có những vị danh nhân, danh tướng như vậy thì đất nước sẽ đổi triều.
Như nhà Hồ chẳng hạn, chỉ được vài năm rồi giặc Minh sang đô hộ tàn sát nền văn hóa của chúng ta. Chúng ta đã thấy rồi, đình, đền, chùa, miếu thì bị đập phá, sách vở bị đốt bỏ. Sau đó chúng ta khôi phục rất vất vả khó khăn. Có những con người như vậy, có những vị tướng như vậy, sự phấn đấu và ý chí mà thành.
Phạm Ngũ Lão có được học hành cơ bản nhiều đâu, nhưng với một tấm lòng yêu dân yêu nước, với tráng chí của một người nông dân, chúng ta đất nước nông nghiệp châu thổ sông Hồng thì với một thanh niên nông thôn mà trở thành danh tướng và sau này ông rất thông hiểu binh thư, là một trong những người bổ sung vào kiện toàn Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn. Ông là một trong những người thực hiện xuất sắc các kế sách của Trần Quốc Tuấn trong Binh thư yếu lược, là vị tướng trải bốn triều vua.
Cho thấy rằng, nếu như chúng ta vì dân tộc, vì nhân dân thì một con người bình thường, một thanh niên từ nông dân nông thôn vẫn có thể trưởng thành. Sau này chúng ta có nhiều nhân vật như vậy.
Chúng tôi vừa đang làm cuốn sách về cụ Tô Hiệu làng Xuân Cầu cũng là một thanh niên từ nông thôn Xuân Cầu trở thành nhà cách mạng, cụ Đỗ Mười cũng là một thanh niên nông thôn và nhiều cụ khác nữa, cho thấy là đất nước không của riêng ai, khi quốc gia lâm nguy trước họa ngoại xâm thì tất cả đều một mực vì dân vì nước đó chính là thành tựu văn hóa và thành tựu giáo dục hun đúc từ nghìn đời.
Dòng họ Phạm tôi đã nghiên cứu từ thời Hồng Bàng đến thời Hùng Vương, đến An Dương Vương, đến Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế… đều có những nhân tài kiệt xuất. Khi tôi viết bài nghiên cứu về cụ Phạm Tu, cũng là ông tổ của Phạm Ngũ Lão là một danh tướng sáng lập, kiến công lập nghiệp của Vương triều Tiền Lý gồm bốn đời hoàng đế quân vương. Sau này, các tướng lĩnh con cháu cụ Phạm Tu nối đời được thờ cúng, được các Vương triều về sau trọng dụng. Trọng dụng hiền tài chính là vẻ đẹp nhất của người Việt. Đến thời đại Hồ Chí Minh, ngay Bác Hồ cũng vậy thôi, Bác sử dụng hiền tài có ngăn cách khu vực nào đâu, cứ có tài là dùng, ai tài đến đâu dùng đến đó, ai có tài về khoa học kỹ thuật dùng về khoa học kỹ thuật, ai có tài văn hóa chính trị dùng về văn hóa chính trị,… thì mới kiến thiết quốc gia được.
Trong ngày hôm nay, chúng ta đang đứng trước những bước ngoặt, thử thách rất lớn. Thế giới diễn biến phức tạp như vậy, các khu vực xung đột, rối ren như vậy thì chúng ta càng thấy là chúng ta phải rất là vững tâm, phải hết sức biết dùng người, phải chính trực với nhân dân, chính trực với văn hóa thì chúng ta mới ổn định.
Cho nên, tôi cho rằng, bài học trưởng thành của Phạm Ngũ Lão trong triều Trần chính là một bài học rất lớn, rất quý về trọng dụng hiền tài, về phấn đấu của hiền tài để cống hiến cho quốc gia, dân tộc và tôi cho rằng đấy chính là mạch nguồn dân tộc để chúng ta có những danh nhân về văn hóa, danh nhân về lịch sử, danh nhân về quân sự. Chúng ta tự hào vì điều đó chứ và đó chính là một trong những cái vẻ đẹp nhất của người Việt Nam, một quốc gia 100 triệu dân đâu có nhỏ, người Việt ở nước ngoài cũng khoảng 5, 6 triệu. Chúng ta thấy được điều đó để chúng ta thực hành những điều có ích cho cuộc sống, cho nhân dân.
Các bạn văn tại buổi nói chuyện về Tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai.
Huyền Trang: Thưa nhà văn, ngoài những đóng góp về sự nghiệp quân sự, danh tướng Phạm Ngũ Lão rất thích làm thơ và có tài ngâm thơ, đặc biệt là một số tác phẩm như “Thuật hoài”. Ông chia sẻ như thế nào về điều này?
Nhà văn Phùng Văn Khai: Tôi cho rằng là cụ Phạm Ngũ Lão còn là một người văn võ toàn tài, chỉ riêng bài Thuật hoài đã cho thấy tầm vóc của một tướng hiền. Tướng hiền chúng ta có nhiều trong lịch sử dân tộc, có những tướng thiên về võ như Trần Khánh Dư là võ tướng hoàn toàn, nhưng cũng ít ai biết Trần Khánh Dư chính là người đề lời bạt cho Binh thư yếu lược. Câu đầu tiên đại ý là đạo làm tướng thì không nên đánh nhau, đã đánh thì không được thua đã thua không được chết là câu của Trần Khánh Dư đề lời bạt trong Binh thư yếu lược.
Phạm Ngũ Lão thì có Thuật hoài: Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu/ Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu/ Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu. Nhưng cụ còn có một tác phẩm thuần túy văn chương khóc Trần Quốc Tuấn khi mất, đó là Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại Vương rất hay.
Thuật hoài từng đưa vào sách giáo khoa khi chúng tôi học ngày xưa. Chúng ta thấy với một người đánh giặc triền miên, cả đời Phạm Ngũ Lão là đánh giặc. Sau hai lần đánh Nguyên Mông thì phải bình định và yên ổn biên giới phía Tây là Ai Lao, biên giới phía Nam là Chiêm Thành vì khi đấy nhà Nguyên móc nối với Chiêm Thành để câu thúc chúng ta ở phía Nam. Phạm Ngũ Lão cả đời trên lưng ngựa, cụ 70 tuổi vẫn dẫn đầu quân đội đi đánh Ai Lao. Những trận đánh đến bây giờ vẫn ghi sử sách cho thấy văn võ toàn tài của Phạm Ngũ Lão.
Vì trong quân thì anh không thể nào chỉ mệnh lệnh hành chính, anh phải có những bài hịch đánh giặc, trước một trận đánh có thể dùng hịch để công bố với quân địch, công bố với quân ta như Lý Thường Kiệt sang đánh Châu Khâm, Châu Liêm là công bố Hịch Lộ Bố Văn, tức là tại sao phải sang đánh. Phạm Ngũ Lão cũng vậy, là học trò của Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn có bài Hịch tướng sĩ chúng ta biết rồi. Với học trò xuất sắc như vậy thì việc đồng tâm, đồng chí, đồng hướng, đồng hành từ lời văn, câu thơ đến lời hịch hoàn toàn là nhập tâm giống nhau. Thông qua đó, chúng ta thêm hiểu được rằng, với một danh nhân thì càng những danh nhân lớn thì ranh giới giữa văn và võ thường dễ xóa nhòa.
Cụ Trần Quốc Tuấn tôi theo tôi còn là một mưu sĩ lớn mới bày được những kế để lui binh như vậy. Cụ Trần Quốc Tuấn chuẩn bị 30 năm để đánh Nguyên Mông lần thứ hai vì lần đầu giặc sang là năm 1258, lần thứ hai là năm 1285 lần, lần thứ ba năm 1288 cách nhau 30 năm, sự chuẩn bị dài như vậy thì không thể nào một người chỉ thạo chinh chiến về võ được mà phải rất giỏi triều chính, rất giỏi kế sách, thậm chí rất giỏi văn hóa vì đánh địch là phải am tưởng cả văn hóa của đối phương. Bắc mã Nam thuyền, anh sang bằng ngựa thì tôi đấu bằng thuyền. Anh với tính cách của người Trung Nguyên anh háo sát như vậy, cứ ai chích vào tay “Sát Thát” là chặt cánh tay và chặt đầu rất là hiếu sát. Ta đánh bằng cách nào đây để tướng sĩ vẫn đánh được một đội quân đông gấp bội như vậy.
Khi đó, quân Nguyên Mông thủy bộ là 50 vạn chưa kể dân phu, Đại Việt lúc đó chỉ có khoảng độ 2 triệu người tức là cứ ba người già trẻ nam nữ phải đánh nhau một tên Nguyên Mông. Nếu như không có kế sách thì mình đánh thắng làm sao được? Đại Tống đông như vậy, các nước khác cũng như vậy, đều chịu thua vó ngựa Nguyên Mông, có chịu nổi đâu mà chúng ta lại chiến thắng chính là điều rất hay, và trong đó tư chất, văn chất của một vị tướng võ là rất rõ. Theo tôi đấy chính là vẻ đẹp nữa của Phạm Ngũ Lão.
Huyền Trang: Xin cảm ơn nhà văn!

Cách đây 3 năm, khi đến thăm tôi, nhà văn Phùng Văn Khai hỏi: "Chú có còn định viết gì nữa không?"
Bình luận