Thơ ca và âm nhạc: Cái tương đồng, cái khác biệt

Thơ ca và âm nhạc là hai loại hình nghệ thuật phản ánh ý thức của con người, là phương thức chiếm lĩnh và cải tạo bản thân Con người và cuộc sống xã hội theo quy luật của cái đẹp. Giữa hai loại hình này, có cái tương đồng và cái khác biệt chủ yếu là về đề tài, chất liệu, ngôn ngữ, phương thức diễn đạt...

Qua lịch sử và phương thức sáng tạo của hai loại hình này, người viết có cơ hội luận rõ bản chất đặc trưng, phương thức thể hiện, cá tính sáng tạo của nhà thơ và nhạc sĩ để đối sánh công phu sáng tạo bằng lời thơ và âm thanh, bằng tư duy ngôn ngữ thơ ca, bằng cảm xúc và tưởng tượng bằng lý tính và phi lý tính, bằng câu thơ và ca từ của mỗi một tác phẩm. Có thể khái quát các yếu tố nhận thức và cảm thức của chúng thành ít nhất 6 đặc trưng sau đây:

Tư tưởng thơ ca Tư tưởng âm nhạc

• Trực giác, siêu logic • Sức tưởng tượng về âm thanh

• Phi lý tính qua ngôn ngữ thơ • Nhạc lý thơ

• Cảm thức • Duy lý và duy cảm 

• Duy cảm • Nhạc đạo (triết lý về âm nhạc)

• Con tim • Ngôn ngữ âm nhạc dân gian

• Tư tưởng tiềm ẩn • Ngôn ngữ âm nhạc phương Tây (opera, sonets,...)

MẤY ĐẶC ĐIỂM VỀ THƠ CA

Có hàng trăm định nghĩa về thơ ca và những đối sánh giữa thơ ca và khoa học, thơ ca và lịch sử, thơ ca và tôn giáo... Cả phương Đông lẫn phương Tây đều có những luận điểm, những kiến giải hàm súc, chuẩn xác về đặc trưng của thơ. Từ đó, chúng ta nghĩ ngay đến tư duy tổng hợp có phần tiếp cận với những đặc trưng của thơ ca hiện đại. Đọc tác phẩm của Khổng Tử, chúng ta biết nhà triết học thông tuệ rất coi trọng “Kinh thi” bởi sự ôn nhu đôn hậu của hàng trăm bài thơ, rồi đưa ra một định nghĩa về đặc trưng khái quát trong sáng tạo và thưởng thức thơ ca:

Thi khả dĩ hững (thơ lay động lòng người);

Thi khả dĩ quan (thơ xem xét nhân tình);

Thi khả dĩ quần (thơ có khả năng tập hợp mọi người);

Thơ khả dĩ oản (bộc lộ nỗi oán thán....).

Ở một khía cạnh khác, Khổng Tử phê phán âm nhạc của các nước Trịnh, Tống, Vệ, Tề vì âm nhạc ở đây đều là gây ảnh hưởng không tốt đến chí, làm cho chí tà dâm, say đắm nữ sắc làm cho chí đắm đuối, dâm dật, làm cho chí rối loạn, phóng túng, làm cho chí kiêu căng. Mặc dù ngày nay, giới phê bì có thể chưa vừa ý, thậm chí coi tư tưởng của Khổng Tử về thơ ca và âm nhạc là thuần lý, cực đoan. Nhưng phải thừa nhận rằng, trí tuệ của người xưa đã gần đến với đặc trưng của thơ và âm nhạc thời đại chúng ta. Thơ ca và âm nhạc đều lấy con người làm trung tâm, thời đại là mẹ của con người; Thơ hay cốt ở tình và văn.

 Đề tài của mọi khuynh hướng thơ ca, âm nhạc đều tìm đến sự thật, đức tin, cái đẹp. Tấm lòng tài năng của nhà thơ, nhạc sĩ nếu không đi theo quy luật của cái đẹp, thì thơ ca, nhạc phẩm chỉ là loại hoa giấy. Trong thơ ca, tư tưởng biểu hiện thường xuyên là trực giác và sức tưởng tượng của nhà thơ. Trong thi pháp của Aristoteles, chúng ta cùng đọc đoạn so sánh nhà thơ và nhà viết sử nhà sử học kể về cái đã xảy ra, còn nhà thơ nói về cái cụ thể, có thể xảy ra bằng trực giác và sức tưởng tượng. Cái đẹp của thơ ca bao giờ cũng gắn liền với cái đạo đức, nhưng không phải là những lời giáo huấn khô khan,nmà trước tiên xuất phát điểm của cảm xúc tự nhiên của nhà thơ và tiếp theo là sức tưởng tưởng của cái phải trở nên, tức là những cảm xúc đau buồn, sung sướng, ngang trái của đời người. Địa chỉ cuối cùng của thơ là cảm xúc, là tiếng lòng của con người. Con người nhận thức thế giới không chỉ bằng duy lí mà còn bằng mọi cung bậc, mọi giác quan: hỷ, nộ, ái, lạc, ái, ố, dục của cuộc đời.

Nhà thơ lớn nước Đức Goethe nói đại ý rằng, nghệ sĩ và người thưởng thức khi đứng trước tác phẩm vừa là lời văn và con chữ trước tiên qua tâm hồn và con tim của mình. Lý tưởng là cái đẹp của con người, lý tưởng của thơ ca và âm nhạc là chân, thiện, mỹ của đời người, chúng giống như thỏi nam châm có sức hút, sức cảm hóa mọi thị hiếu của người đọc và người nghe bằng hai phương tiện khác nhau: Lời thơ và âm thanh qua tri thức, tài năng, tâm hồn, sức bay của trí tưởng tượng mà trước hết là trí tuệ và cảm xúc. Các nhà thần kinh học cho biết, ở con người cảm xúc thường chiếm trên 80% tư duy sáng tạo, nhưng trí tuệ không nên hiểu là phần còn lại của não bộ, nhất là trong thơ và nhạc mà là sức của trí tưởng tượng. Khi nói về phẩm chất hàng đầu của thi ca Nga, người ta thường nhắc tới ngọn lửa trí tuệ, ngọn lửa bên trong của A. Puskin. Nhiều bạn văn của đại thi hào Nga kể lại rằng, trong khi sáng tác, nhà thơ làm việc thật đáng sợ: Phòng viết biến thành một thư viện; một khối lượng sách, tư liệu, hồ sơ bằng sáu thứ tiếng về các ngành khoa học, triết học, lịch sử... Nhưng điều đáng tiếc hơn cả là nỗi lòng đau đớn khi bản thảo đưa in bị kiểm duyệt của chính quyền Nga hoàng, ông kêu lên “đó là máu của tôi đã chảy ra!”.

TỪ NHỮNG BÀI THƠ LỚN ĐẾN NHỮNG NHẠC PHẨM HÀO HÙNG

Âm nhạc là loại hình nghệ thuật dùng âm thanh và giai điệu, ca từ để diễn tả những tư tưởng và tình cảm của con người, tư duy trừu tượng và thông điệp từ những sự kiện của lịch sử. Có âm nhạc chuyên nghiệp và âm nhạc dân gian, âm nhạc có lời (nhạc hát) và âm nhạc không lời (khí nhạc). Dưới thời đại phong kiến, chúng ta biết tới âm nhạc cung đình, các loại âm nhạc do người dân tự biên, tự diễn như hát ru, hát giao duyên, hát đồng giao, âm nhạc tế lễ. Nghe và hiểu âm nhạc khác hẳn với đọc thơ, ngâm thơ. Cái trước là ngôn ngữ “tiềm ẩn lấy âm thanh, giai điệu, ca từ làm phương đến để diễn tả cuộc sống xã hội, nội tâm phong phú của ng con người”. Âm nhạc và cả thơ ca không chỉ là loại hình nghệ thuật để thưởng thức, cảm thụ mà trong lịch sử văn hóa nhận loại còn có Thơ Thần, quốc tế ca, quốc ca,... những biểu tượ5 hào hùng phản ánh những sự kiện mang tầm quốc 84 quốc tế. Trong lịch sử văn hóa nước ta, những bài thơ, những bài hịch, các loại chiếu, biểu,... được coi là những bài thơ “thần” ghi lại chiến công oanh liệt, lòng tự hào dân tộc, lòng tự chủ quốc gia.

Trong lịch sử văn hóa nước ta, những bài thơ, những bài hịch, các loại chiếu biểu… được coi là những bài thơ “thần” ghi lại chiến công oanh liệt, lòng tự hào dân tộc, lòng tự chủ quốc gia. Nam quốc sơn hà (tương truyền của Lý Thường Kiệt) là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam tự chủ, khẳng định lãnh thổ nước Nam, quyền tự quyết thiêng liêng đều ghi trong Thánh Thư với lời thơ đanh thép: bất cứ kẻ thù xâm lăng nào đến xâm phạm, nhất định sẽ thất bại:

“Nam quốc sơn hà, Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Bài thơ được sáng tác ở ngôi đền cạnh sông Như Nguyệt là lời mách bảo của hai vị đại thần Trương Hồng, Trương Hát truyền cho tướng sĩ, quân lính Việt Nam sức mạnh đánh tan quân xâm lược nhà Tống vào năm 1077. Trong văn học thời trung đại nước ta, các nhà văn, nhà thơ còn dùng các thể loại hịch, chiếu, biểu, dụ,... để các vua, thủ lĩnh làm lời sấm kêu gọi lòng yêu nước, cổ vũ quân dân chiến đấu chống quân xâm lược. Tất cả các loại hình trên đều được viết bằng văn biền ngẫu, thơ tứ lục, thơ lục bát. Tiêu biểu và có giá trị nhất là Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, trong lời dụ đọc trước lễ xuất quân của vua Quang Trung trên đường kéo quân ra Bắc với khí thế hào hùng, quyết tâm cao như núi để tiêu diệt quân xâm lược, bảo vệ độc lập của Tổ quốc.

“Đánh cho để tóc dài

Đánh cho để răng đen

Đánh cho nó chính luận bất phản

Đánh cho nỏ phiến giáp bất hoàn

Đánh cho sử thi Nam quốc Anh hùng chỉ hữu chủ.

Trong thời đại chúng ta, ai ai cũng nhớ bài thơ kiệt tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó chính là bài hịch hiện đại, cảm thức sâu đậm, trí tuệ chói sáng dự báo cảnh đại thắng của quân và dân ta khắp cả nước để đi đến thắng lợi cuối cùng, kẻ thù thua trận, non sông thống nhất:

Năm qua thắng lợi vẻ vang

Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to

Vì độc lập, vì tự do

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào

Tiến lên chiến sĩ, đồng bào

Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn

(Bài ca mùa Xuân, 1968)

Tất cả những bài thơ trên sở dĩ được lịch sử khắc ghi, được người đời qua các thế hệ từ trẻ đến già thuận lòng và nhờ tính nhạc.

Beau Delaire có lần nói: “Thơ ca gắn liền với âm nhạc bằng các giai điệu (prosodie), vốn là gốc rễ ăn sâu vào tâm hồn ta, đến nỗi chẳng có lí thuyết kinh điển nào biết được”. Mỗi câu thơ hay gắn liền với nghệ thuật âm nhạc nhờ sức tưởng tượng. Chính vì vậy mà trong lịch sử thế giới, nước nào cũng có quốc ca, quốc thiều, nhiều Đảng Cộng sản có Quốc tế ca. Ở Pháp có bài ca cách mạng dùng làm quốc ca: Marseillaire do nhạc sĩ Rouget de Listen soạn cả lời lẫn nhạc và năm 1792 có tên gọi Bài ca chiến đấu của Binh đoàn sông Ranh, về sau đổi thành Khúc quân hành của những người Macxây tiến vào Paris. Marseillaire được nhận làm quốc thiều của Đệ tam Cộng hòa từ đó. Quốc thiểu là nhạc của bài quốc ca chính thống của một nước, thường sử dụng ở đầu các buổi nghi lễ của nhà nước, kéo cờ ở các cơ quan nhà nước, lễ đón tiếp nguyên thủ quốc gia nước ngoài. Quốc thiều nước ta (1976 đến nay) mở đầu là nhạc của bài Quốc ca Tiến quân ca do nhạc sĩ tài hoa Văn Cao sáng tác. Quốc thiều Việt Nam hiện đại mang tính lịch sử, truyền thống văn hiến, tính thơ của một giai đoạn khởi nguyên đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc và bền vững.

TỪ NHẠC CÓ LỜI ĐẾN CA TỪ CỦA NHẠC

Đọc lịch sử thơ ca nước ta và nhiều nước khác, dù là phương Đông hay phương Tây đều có chung quan niệm về lý thuyết: Các nhạc sĩ trong khi sáng tác thường “vay mượn” lời thơ, nhất là những bài thơ hay, câu thơ giàu nhạc tính. Thơ và nhạc thường se duyên cho nhau, trong thơ có nhạc, nhạc tôn vinh, phổ cập hóa bài thơ (gọi nôm na là phổ thơ). Các nhạc sĩ khi sáng tác ca khúc thường phổ nhạc một bài thơ, ngắn nhưng ý nhạc sâu (có thể gọi là nhạc lý) hoặc phỏng theo một đoạn thơ hay, ca từ đẹp để phổ nhạc. Có bốn trường hợp thường xảy ra là nhờ chỗ dựa đáng tin cậy, tiếng Việt có 6 thanh âm, âm nhạc có 7 nốt cơ bản: Nhạc và lời của cùng một tác giả như Bài ca Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, trường họp thứ hai thường phổ biến, có sự kết hợp giữa thơ và giai điệu: Thơ Lời ru buồn của Hoàng Cầm chuyển sang ca khúc: Lá diêu bông của Trần Tiến. Trường hợp thứ ba được xuất hiện thường xuyên nhà lời thơ và gia điệu “có duyên” đậm đà với nhau: Hoàng Hiệp với Câu hò trên bờ Hiền Lương (thơ của Đằng Giao); Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (thơ Phạm Tiến Duật); Thuyền và biển (thơ Xuân Quỳnh). Tất cả nhạc của Phan Huỳnh Điểu; Huy Du với nhiều ca khúc hay nhờ biết “dựa lưng” vào lời thơ tha thiết: Tình em, Nổi lửa lên em... Trường hợp thứ tư, các nhạc sĩ thường mượn những môtíp âm nhạc dân gian: Ca từ như một khổ thơ hay: Phó Đức Phương cách tân ca khúc của mình với giai điệu và lời mở: “Trên quê hương quan họ/Một làn nắng cũng mang điệu dân ca/Giữa mùa lúa thơm/Cánh cò đẹp như trong mộng/Những cô Tấm ngày xưa vẫn còn đây trong mùa trẩy hội...” Nguyễn Trọng Tạo mượn dân ca quan họ Bắc Ninh để dạo đầu cho ca khúc Làng quan họ quê tôi (thơ của Nguyễn Phan Hách), Đỗ Nhuận với tình cảm chân thật, khi mượn những giai điệu âm nhạc dân gian Nghệ Tĩnh để có ca khúc ẩn dụ: “Trồng cây tôi lại nhớ đến Người. Cũng tương tự như vậy, với chất liệu dân gian Nghệ Tĩnh An, Thuyên đã sáng tác lên giai điệu dịu ngọt trong ca khúc hay: Neo đậu bến quê v.v…

Nói quan hệ thẩm mĩ giữa thơ và nhạc là nhờ có tính ưu việt của tiếng Việt có sáu thanh âm, và trong âm nhạc có 7 nốt cơ bản, nên bài hát dễ đến với số đông người nghe.

Tôi rất tâm đắc với những ý tưởng trong bài se duyên thơ và nhạc của Tiến sĩ Phạm Việt Long (Văn nghệ số ra ngày 10/12/2016), khi ông khảo chứng trường hợp "Nhạc nâng cánh cho thơ, nhất là những bài thơ mới ra đời, nhưng chưa được số đông độc giả, thính giả biết đến, nếu được nhạc sĩ phổ nhạc thành ca khúc hay, thì tác phẩm có cơ hội đến với số đông công chúng yêu mến đón nhận...”. Những trường hợp “hữu duyên” giữa thơ và nhạc như nói ở trên còn nhiều, chỉ cần chờ tài năng, trí tưởng tượng, giai điệu, âm thanh, âm sắc của nhạc sĩ. Thậm chí với trường ca, nếu nhạc sĩ biết chọn lựa, dừng lại ở khổ thơ giàu nhạc tính, cũng sẽ cho ta bài hát hay. Ví dụ bài thơ Người đi tìm hình của nước của Chế Lan Viên. Ở đó có những khổ thơ vừa trữ tình, vừa triết lý ca ngợi vị lãnh tụ anh minh:“Đất nước đẹp vô cùng/ Nhưng Bác phải ra đi/ Cho tôi làm con sóng dưới tàu đưa tiễn Bác/ Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất/ Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre”...

Bài thơ tình ở Hàng Châu (1956) của Tế Hanh cũng cho nhạc sĩ nhiều cảm hứng sáng tạo, nhờ lời thơ tài hoa: “Mùa thu đã đi qua còn giữ lại/ Một ít càng trong nắng trong cây/ Một ít buồn trong gió, trong mây/ Một ít vui trên mỗi người thiếu nữ”....

Nói chuyện “sánh duyên” giữa thơ ca và âm nhạc là câu chuyện rất dài, rất sâu, không chỉ là một hiện tượng học mà còn là một phẩm chất vĩnh cửu của sự sáng tạo như sức tưởng tượng, tính trí tuệ, tài năng của người sáng tạo lẫn người tiếp nhận cả trong khoa học và nghệ thuật. Đó là nền tảng, là vật báu tinh thần, là minh triết của một dân tộc văn hiến và tự do sáng tạo.

Hồ Sĩ Vịnh

Tin liên quan

Tin mới nhất