Văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất: Khẳng định sức sống bền bỉ của bản sắc dân tộc

Ngày 18/10, tại Hà Nội, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia “Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025)”.

Văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất: Khẳng định sức sống bền bỉ của bản sắc dân tộc - 1

Toàn cảnh Hội thảo khoa học quốc gia “Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025)”.

Ảnh: Huyền Thương

Văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất: Khẳng định sức sống bền bỉ của bản sắc dân tộc - 2

Các đại biểu tham dự Hội thảo.

Ảnh: Huyền Thương

Những dấu ấn của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam trong 50 năm qua

Phát biểu khai mạc Hội thảo, GS.TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam khẳng định: “Từ khi thành lập Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã thực sự là nơi tập hợp, đoàn kết, cổ vũ và tạo điều kiện cho hội viên được làm nghề và phát triển. Đồng thời, góp phần to lớn vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc, từ đó góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đóng góp vào công cuộc chấn hưng đất nước, đưa văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, tạo nên sự đa dạng văn hóa như công ước 1972 của UNESCO đề ra”.

Văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất: Khẳng định sức sống bền bỉ của bản sắc dân tộc - 3

GS.TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo.

Ảnh: Huyền Thương

Nhắc lại những dấu mốc quan trọng trong hoạt động của Hội trong giai đoạn 1975-2025, GS.TS Lê Hồng Lý cho biết, tuy có những bước thăng trầm nhưng đây là thời kỳ Hội hoạt động phát triển nhất. Trong đó phải kể tới Dự án “Công bố, phổ biến tài sản văn hóa văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam” đã thu thập lượng dữ liệu bản thảo cần xem xét lên tới hơn 2.500 tác phẩm. Qua việc rà soát lại toàn bộ hệ thống dữ liệu, Dự án đã thẩm định và lựa chọn, công bố toàn bộ 1.500 tác phẩm, tương ứng 975 đầu sách, với 975 lượt tác giả/nhóm tác giả của 556 tác giả là hội viên, cộng tác viên của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và các nhà nghiên cứu, nghệ nhân dân gian trên cả nước. Số tài liệu đã công bố đã được đưa đến 2.000 đơn vị thụ hưởng thành quả của Dự án, trong đó có hơn 400 đơn vị là các đồn bộ đội biên phòng, thư viện các huyện miền núi biên giới, hải đảo, các trường phổ thông dân tộc nội trú.

Dưới sự tài trợ của quỹ Ford Foundation thông qua tổ chức CEEVN, đã có nhiều dự án nhỏ nhưng rất thiết thực cho các cá nhân, các địa phương nhằm nghiên cứu, phục dựng những di sản văn hóa dân gian có nguy cơ bị mai một.

Hội có một ấn phẩm thường xuyên là Tạp chí Nguồn sáng dân gian xuất bản 3 tháng một số, 4 số một năm. Tính từ 2001 đến quý II năm 2025 đã phát hành được 94 số tiếng Việt. Đây là diễn đàn của tất cả các hội viên và các cộng tác viên bên ngoài Hội. Tạp chí được Hội đồng chức danh Giáo sư nhà nước phê duyệt vào Danh mục Tạp chí khoa học được tính điểm năm 2024 theo Quyết định số 25/QĐ- HĐGSNN ngày 5/7/2024.

Hội luôn quan tâm, vinh danh các nghệ nhân dân gian - những báu vật nhân văn sống của các dân tộc. Tổng số nghệ nhân dân gian được vinh danh từ 2003 tính đến hết tháng 6 năm 2025 là 789 nghệ nhân.

Từ 1993 đến 2024, Hội đã trao giải cho 2.010 tác phẩm, đó vừa là sự ghi nhận thành tích nghiên cứu của hội viên trong cả nước, đồng thời, cũng là một phần hỗ trợ và khuyến khích cho công việc sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam.

Từ 1999 đến giữa 2025, Hội đã tổ chức được 472 lượt hội viên đi dự trại viết, với số lượng từ một đến hai trại một năm.

Từ năm 2000 đến giữa năm 2025, Hội đã hỗ trợ sáng tạo cho 1.250 hội viên ở các chi hội trong cả nước, đã xuất bản được 172 đầu sách cho hội viên ở các lĩnh vực văn hóa dân gian.

Văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất: Khẳng định sức sống bền bỉ của bản sắc dân tộc - 4

Hội thảo có sự tham dự của đông đảo các đại biểu là các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, quản lý văn hóa, đại diện các cơ quan báo chí...

Ảnh: Huyền Thương

Ngoài ra, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam trong suốt 50 năm qua đã đăng cai tổ chức, cũng như kết hợp với các địa phương, chi hội tổ chức được nhiều hội thảo có ý nghĩa thiết thực. Tham gia các hoạt động tư vấn cho các bộ ngành, địa phương về việc xác định các di sản văn hóa dân gian, khôi phục lễ hội, trò diễn, diễn xướng. thông qua đó để giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.

Đặc biệt, theo Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, trong số các di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh và 655 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, tính đến ngày 23/6/2025 đều có sự đóng góp bằng cách này hay cách khác của các hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.

Văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất: Khẳng định sức sống bền bỉ của bản sắc dân tộc - 5

Đoàn Chủ tọa điều hành Hội thảo.

Ảnh: Huyền Thương

Phát triển và lan tỏa di sản văn nghệ dân gian trong cộng đồng

Trình bày tham luận tại Hội thảo về vấn đề sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian Nam Bộ từ năm 1975 đến nay, GS.TS Nguyễn Chí Bền, Chi hội Văn nghệ dân gian Viện Văn hoá, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam cho rằng, Nam Bộ là vùng đất có vị thế đặc biệt về địa - lịch sử và địa - chính trị trong không gian văn hóa Việt Nam, đồng thời, là khu vực có đặc trưng riêng trong tiến trình sưu tầm và nghiên cứu văn hóa dân gian.

Trong đó, việc sưu tầm, nghiên cứu theo các loại hình như: ngữ văn dân gian (truyện kể, truyện cười, truyện trạng, ca dao, dân ca, tục ngữ, vè câu đố), nghệ thuật dân gian (kiến trúc dân gian), nghệ thuật trình diễn dân gian (dân ca, nhạc lễ, đờn ca tài tử), tri thức dân gian và làng nghề, tín ngưỡng và lễ hội dân gian, nghệ nhân đã đạt được nhiều thành tựu.

GS.TS Nguyễn Chí Bền cũng nhấn mạnh, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, cần chú ý đến các vấn đề nghiên cứu tổng thể văn hóa dân gian Nam Bộ, xây dựng databank văn hóa dân gian Nam Bộ và quảng bá thành tựu nghiên cứu văn hóa dân gian Nam Bộ với bạn đọc trong nước và nước ngoài…

Văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất: Khẳng định sức sống bền bỉ của bản sắc dân tộc - 6

GS.TS Nguyễn Chí Bền, Chi hội Văn nghệ dân gian Viện Văn hoá, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam tham luận về vấn đề sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian Nam Bộ.

Ảnh: Huyền Thương

Là một bộ phận của văn học dân gian Nam Bộ, văn học Khmer từ sau năm 1975 đã đạt nhiều kết quả quan trọng cả về chiều rộng tư liệu lẫn chiều sâu học thuật, cũng như từng bước được đẩy mạnh với các hoạt động sưu tầm, biên soạn và nghiên cứu. Theo TS. La Mai Thi Gia, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia thành phố HCM, văn học dân gian Khmer Nam Bộ qua các công trình sưu tầm và nghiên cứu tiêu biểu đã phác họa diện mạo, thể loại và đặc điểm nội dung trong bối cảnh văn hóa tộc người.

TS. La Mai Thi Gia cũng kêu gọi sự quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa từ giới nghiên cứu và các cơ quan văn hóa nhằm bảo tồn, phát huy giá trị di sản tộc người Khmer Nam Bộ một cách bền vững trong thời đại hội nhập.

Văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất: Khẳng định sức sống bền bỉ của bản sắc dân tộc - 7

TS. La Mai Thi Gia, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia thành phố HCM tham luận về văn học Khmer.

Ảnh: Huyền Thương

PGS. TS Trần Thị An, Trưởng Khoa học liên ngành và nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định, ngày 30/4/1975 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho các hoạt động văn học nghệ thuật trên cả nước. Trải qua những năm tháng khó khăn đầy hậu chiến, cũng như nhiều tỉnh thành khác trên cả nước, các hoạt động văn học nghệ thuật của ba thành phố Hà Nội, Huế, thành phố HCM đã từng bước được định hình và phát triển theo định hướng mới của một đất nước thống nhất.

“50 năm qua, nếu ví sự phát triển của đất nước như một bức tranh đa sắc màu, thì văn học nghệ thuật là một mảng màu và văn hóa, văn nghệ dân gian như những sắc màu đóng góp vào bức tranh đa sắc đó”, PGS. TS Trần Thị An nói.

Bằng việc nhìn từ góc độ thực hành văn hóa và từ đó đóng góp của các hội viên của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật của ba thành phố Hà Nội, Huế và thành phố HCM, bài tham luận của PGS. TS Trần Thị An đã phân tích, nhìn nhận và khẳng định những đóng góp đặc sắc của các thành phố vào bức tranh phát triển của đất nước trong 50 năm qua.

Văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất: Khẳng định sức sống bền bỉ của bản sắc dân tộc - 8

PGS. TS Trần Thị An, Trưởng Khoa học liên ngành và nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội tham luận về các hoạt động văn nghệ dân gian của ba thành phố Hà Nội, Huế, thành phố HCM.

Ảnh: Huyền Thương

Trả lời câu hỏi của phóng viên về sự phát triển của văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau năm 1975, GS.TS Lê Hồng Lý cho rằng, 50 năm qua, văn nghệ dân gian đã phát triển mạnh mẽ, cả trong công tác sưu tầm, phổ biến và truyền dạy. Trong đó, nhiều di sản văn hóa dân gian đã được sưu tầm, khôi phục, được ghi chép lại và được thực hành trong đời sống. Có những di sản, ngày xưa từng bị coi là mê tín dị đoan, nhưng đến nay lại trở thành những di sản văn hóa thế giới như: “Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt”; việc sưu tầm được một pho tàng sử thi Tây Nguyên vô cùng lớn sau chiến tranh, được cả thế giới khâm phục; việc sưu tầm, phục dựng những di sản văn hóa dân gian trên khắp mọi miền đất nước…

Theo GS.TS Lê Hồng Lý, những phong tục, tập quán hay di sản văn hóa dân gian, từ nghi thức tín ngưỡng, lễ hội, đến dân ca, dân vũ… hiện đang đứng trước nguy cơ mai một, đặt ra trách nhiệm lớn lao cho những người làm công tác sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa, văn nghệ dân gian, cũng như trách nhiệm của những nhà quản lý trong quá trình hoạch định, xây dựng chính sách làm sao để vừa có thể bảo tồn, gìn giữ được giá trị di sản, vừa phát triển và lan tỏa di sản văn hóa văn nghệ dân gian đến cộng đồng.

Trong thời đại số hiện nay, sự phát triển của công nghệ vừa tạo điều kiện phát triển thuận lợi nhưng cũng là một thách thức lớn đối văn hóa dân gian, bởi theo GS. TS Lê Hồng Lý, không gian và môi trường sống của văn hóa dân gian đang dần bị thu hẹp. Nguyên nhân của vấn đề này là do ảnh hưởng của quá trình hội nhập quốc tế mạnh mẽ, các làng quê đang dần bị đô thị hóa, đây là một thách thức lớn trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa, văn nghệ dân gian.

Tuy nhiên, thời gian gần đây đã xuất hiện một số tín hiệu tích cực trong việc giới thiệu, lan tỏa văn hóa, văn nghệ dân gian đến thế hệ hôm nay như việc các nghệ sĩ và nhạc sĩ đưa chất liệu dân gian vào âm nhạc và gặt hái được nhiều thành công, đặc biệt là trường hợp của Hòa Minzy và Đức Phúc. Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam nhấn mạnh, việc đưa văn hóa dân gian vào các tác phẩm âm nhạc hiện đại vừa góp phần gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, vừa đóng vai trò quảng bá, lan tỏa văn hóa Việt trong đời sống đương đại.

Huyền Thương

Tin liên quan

Tin mới nhất

Dương Quyết Thắng và những vần thơ mang hồn Việt

Dương Quyết Thắng và những vần thơ mang hồn Việt

Giữa dòng đời hối hả vẫn có một con người luôn giữ cho mình một khoảng trời thi vị, nơi thơ ca cất tiếng như tiếng lòng sâu thẳm. Một thi sĩ với trái tim nhân hậu và hồn thơ thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước và con người.