Về các thế hệ tác giả văn học Việt Nam ở nước ngoài kể từ sau năm 1975

Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định mạnh mẽ: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Xét trong phạm vi hẹp, điều ấy có nghĩa rằng: Đã là người Việt Nam, người mang dòng máu Việt trong huyết mạch, thì dù cư trú và làm việc ở đâu trên thế giới này, họ cũng vẫn là một bộ phận hợp thành của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Chiến thắng 30/4/1975 đã đánh một dấu mốc vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam: chiến tranh chấm dứt, đất nước đã hoàn toàn hòa bình, độc lập, thống nhất để hướng tới xây dựng, đổi mới và phát triển. Từ một phía khác, vì những lý do chính trị - xã hội khác nhau, thậm chí là do bất đồng về quan điểm, chính kiến, số lượng người Việt Nam từ trong nước di cư sang các quốc gia và vùng lãnh thổ khác trên thế giới để sinh sống, làm việc trở nên nhiều hơn hẳn so với giai đoạn trước năm 1975. Trong số đó có những người sáng tác văn học. Tác phẩm của họ, tính từ năm 1975 đến năm 2025, tuy không thuộc dòng chủ lưu nhưng vẫn được và cần phải được xem là một bộ phận không thể tách rời của nền văn học dân tộc Việt Nam. Một bộ phận văn học có những đặc điểm riêng về lịch sử vận động, các thế hệ tác giả, sự lựa chọn ngôn ngữ sáng tác và các chủ đề được quan tâm khai thác, thể hiện.

Xét trên tổng thể, đa số các nhà nghiên cứu về văn học của người Việt Nam, người gốc Việt ở nước ngoài giai đoạn từ sau khi đất nước thống nhất đến nay đều có quan điểm đồng thuận về sự xuất hiện của hai thế hệ tác giả. Thế hệ thứ nhất là những tác giả rời Việt Nam ra nước ngoài khi đã trưởng thành và có một quá khứ thấm đẫm Việt Nam làm tài sản tinh thần trong hành trình nhập cư xứ người, thậm chí đã hình thành cả một bề dày sáng tác văn học đáng kể. Thuộc thế hệ này, nếu là người miền Nam, có khá nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trước năm 1975, họ đã viết từ trong nước và họ tiếp tục viết khi ra nước ngoài (chủ yếu ở Mỹ, Canada, Úc, Pháp). Có thể kể đến: Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Nguyễn Xuân Hoàng, Đặng Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Viên Linh, Nguyễn Mạnh Côn, Trần Dạ Từ...

Nếu là người miền Bắc thì đa phần là du học sinh, nghiên cứu sinh và lao động xuất khẩu (chủ yếu ở Liên bang Nga, Đức, Ba Lan, Séc, Hungary, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan). Họ sang nước ngoài học tập, làm việc có thời hạn, nhưng nếu có mong muốn và gặp điều kiện thuận lợi thì cũng có thể định cư lâu dài, và viết. Có thể kể đến: Nguyễn Huy Hoàng, Phạm Hải Anh, Lê Minh Hà, Đoàn Minh Phượng, Thuận, Trần Quốc Quân, Nguyễn Văn Thọ, Mai Lâm, Đỗ Ngọc Việt Dũng...

Về các thế hệ tác giả văn học Việt Nam ở nước ngoài kể từ sau năm 1975 - 1

Một số tác phẩm của các tác giả văn học Việt Nam ở nước ngoài kể từ sau năm 1975.

Về sáng tác, điểm chung của các tác giả thuộc thế hệ thứ nhất là đại đa số viết bằng tiếng Việt, viết bằng cảm thức của người Việt xa xứ nhớ cố hương, hoài cố quốc, đau đáu với những mảnh vụn ký ức về đất nước Việt Nam. Họ viết như để trải lòng, để chia sẻ với cộng đồng người Việt về những kinh nghiệm hòa nhập vào đời sống bản địa, những nỗ lực trong cuộc bươn chải mưu sinh không hề dễ dàng trên đất khách, những thất vọng, mặc cảm và sự vượt qua khi phải đối mặt trước những khác biệt về văn hóa và cả sự kỳ thị chủng tộc. Nhưng bên cạnh đó, nhiều tác giả cũng thể hiện một tình yêu Việt Nam tha thiết, niềm tự hào được là người Việt Nam lớn lên từ mạch nguồn của truyền thống Việt, và ý thức rất mạnh về trách nhiệm phải gìn giữ, bảo vệ bản sắc văn hóa Việt. Nói cách khác, đối tượng công chúng mà các tác giả thuộc thế hệ thứ nhất của văn học Việt Nam ở nước ngoài kể từ sau năm 1975 hướng đến, là công chúng độc giả Việt Nam. Và qua cách viết/ kể câu chuyện riêng của mình bằng tiếng Việt cho người Việt đọc, họ đã góp phần làm phong phú, đa dạng thêm cho nền văn học tiếng Việt, cho cả diện mạo của hiện thực đời sống Việt Nam và hiện thực cuộc sống của con người Việt Nam trong văn học kể từ ngày đất nước thống nhất.

Phải nhấn mạnh những điểm này, bởi lẽ, theo nguyên tắc “phản ánh” của chủ nghĩa hiện thực cổ điển, đọc các tác giả này chúng ta sẽ thấy rất nhiều về hiện thực cuộc sống và tâm hồn của những di dân người Việt sau 1975. Ví như những tùy bút mang tính cách hồi nhớ các miền đất, các phong tục tập quán, những hội hè lễ lạt nơi quê cũ của Võ Phiến; hay cảnh người Việt Nam trên hành trình nhập cư trái phép, một sống một chết sang các nước Đông Âu khi Liên Xô tan vỡ trong tiểu thuyết Quyên của Nguyễn Văn Thọ; hoặc cuộc sống bán sức lao động, bán buôn chợ trời, liên kết làm ăn và tráo trở lọc lừa, thậm chí ăn cướp lẫn nhau khi có thể, của người Việt ở Ba Lan đầu những năm 1990 trong tiểu thuyết Tuyết hoang của Trần Quốc Quân...

Thế hệ thứ hai là những tác giả gốc Việt sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, hoặc nếu từ Việt Nam sang nước ngoài thì cũng là sang từ khi còn nhỏ, ký ức về Việt Nam rất mờ nhạt. Họ đang là những tác giả của văn học thì hiện tại, và đại đa số viết bằng tiếng nước ngoài: Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản... Bằng những ngôn ngữ sáng tác thuộc loại “mạnh”, mang tính quốc tế hóa cao như vậy, đối tượng công chúng mà họ hướng đến rõ ràng không chỉ bó hẹp vào công chúng độc giả Việt Nam, mà là công chúng độc giả toàn cầu. Mối quan tâm của họ cũng không chỉ là những vấn đề xuất phát từ Việt Nam, mà là những vấn đề xuất phát từ tình hình thực tế của thế giới hiện đại đang bao quanh, thách thức tất cả các cộng đồng người, các quốc gia dân tộc nói chung. Những vấn đề toàn cầu, có thể nói như vậy: chiến tranh, dịch bệnh, mất cân bằng sinh thái, xung đột tôn giáo - chủng tộc, bất bình đẳng giới, di cư và nhập cư, chủ nghĩa bá quyền và đa dạng văn hóa…

Trên diện rộng, thế hệ thứ hai này là một lực lượng khá hùng hậu và ngày càng xuất hiện nhiều cây bút được khẳng định như những tên tuổi uy tín trên văn đàn. Chỉ xét riêng ở Hoa Kỳ, đã có thể kể đến những tác giả: Andrew Lam, Monique Truong, Aimee Phan, Dao Strom, Ocean Vuong, Viet Thanh Nguyen, Kien Nguyen, Lan Cao, Lai Thanh Ha, Bich Minh Nguyen... Đặc biệt, các tác giả như Viet Thanh Nguyen (giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 2016) hay Ocean Vuong (giải Eliot TS cho thơ năm 2017, giải MacArthur Fellowship năm 2019) - hai tác giả đồng thời là hai giáo sư văn học - với những thành tựu được ghi nhận xứng đáng, có thể xem là niềm tự hào lớn của cộng đồng sáng tác văn học người Việt Nam và người gốc Việt ở Mỹ kể từ sau năm 1975.

Ở giữa thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai - theo PGS, TS Trần Lê Hoa Tranh, nhà nghiên cứu về văn học Việt Nam ở nước ngoài thuộc trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, còn có một lớp tác giả tạm gọi là “thế hệ một rưỡi” (Bài viết: Những đóng góp của văn học di dân Việt Nam tại Hoa Kỳ vào bức tranh văn học toàn cầu). Tức là những người trẻ hơn thế hệ thứ nhất - bây giờ họ ở khoảng 40, 50 tuổi - họ chia sẻ tình yêu tiếng Việt nhưng không sẻ chia gánh nặng tình cảm với quá khứ Việt Nam như các tác giả thuộc thế hệ thứ nhất. Điều đó khiến họ gần hơn với các tác giả thuộc thế hệ thứ hai, ở thái độ tiếp nhận một cách thực tế và thực dụng cuộc sống mà họ đang phụ thuộc, ở việc hướng mạnh mẽ tới sự hội nhập vào môi trường mới và ngôn ngữ mới. Nhiều người trong “thế hệ một rưỡi” là những tác giả song ngữ rất giỏi, viết bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài đều tốt, như Nguyễn Quý Đức, Phan Nhiên Hạo, Đinh Linh, Trần Hoài Bắc, Dương Văn Mai Elliot... Và cũng bởi thế mà nhiều người kiêm luôn vai trò dịch giả: chuyển ngữ các tác phẩm văn học Việt Nam từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài (Ví dụ: Nguyễn Quý Đức, cùng với John Balaban, đã dịch truyện của Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Thân, Lê Minh Khuê, xuất bản thành tập Việt Nam: Sổ tay văn chương của một lữ khách, 1996; cùng với George Evans dịch thơ Hữu Thỉnh. Trần Hoài Bắc, cùng với Wayne Karlin và Dana Sachs dịch truyện ngắn Lê Minh Khuê: Những ngôi sao, trái đất, dòng sông, 1997. Ngo Vinh Hai, Nguyễn Bá Chung cùng với Kevin Bowen và David Hunt dịch Thời xa vắng của Lê Lựu, 1997 v.v...). Có thể nói, đây là một đóng góp lớn của “thế hệ một rưỡi” trong việc giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam - qua đó là hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ra với thế giới.

     Nhưng sự đa dạng đến phức tạp trong vấn đề thế hệ tác giả của văn học Việt Nam ở nước ngoài sau năm 1975 chưa dừng lại ở đây. Ngay việc phân chia thành thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai cũng chỉ là tương đối: vẫn luôn tồn tại những trường hợp mang tính chất ngoại lệ, đi chệch ra ngoài khuôn khổ. Trong thế hệ thứ nhất, có thể lấy một thí dụ: nhà văn Linda Lê (1963 - 2022). Sinh ra ở Đà Lạt, lớn lên ở Sài Gòn, đến năm 1977 thì sang Pháp định cư. Xuất hiện trên văn đàn vào cuối những năm 1980, nhưng khác với phần đông các nhà văn di dân Việt Nam cùng thế hệ, Linda Lê không viết bằng tiếng Việt, bà viết bằng tiếng Pháp, và chỉ bằng tiếng Pháp. Không những vậy, sự thể hiện ký ức Việt Nam trong các tác phẩm của Linda Lê khá mờ nhạt. Không phải bà không có tình yêu với Việt Nam, mà bởi - theo PGS, TS Thái Phan Vàng Anh, nhà nghiên cứu thuộc Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Huế - Linda Lê mang ý thức rất mạnh về một nhà văn toàn cầu, một nhà văn viết về những thân phận lưu vong thời đại toàn cầu hóa, tức là những con người không thuộc về nơi này cũng chẳng thuộc về nơi kia, không thực sự ở bất cứ đâu, “không tìm được chỗ ẩn náu ở bất cứ nơi nào” (Bài viết: Văn chương và những vấn đề toàn cầu hóa, nhìn từ tiểu thuyết Linda Lê). Mỗi khi Linda Lê viết về người Việt Nam hoặc người gốc Việt ở nước ngoài, thì thường đó là những nhân vật đã được quốc tế hóa rất đậm, họ ứng xử như thể là những công dân bản địa trong môi trường văn hóa xã hội máu thịt của chính mình. Thậm chí còn có trường hợp cực đoan như người cha của nhân vật chính trong tiểu thuyết Vượt sóng: một người đàn ông mang dòng máu Việt Nam trong mình nhưng lại luôn miệng khinh bỉ, chửi rủa dân nhập cư hạ đẳng, “những kẻ đến chỉ để làm suy yếu nước Pháp”.

Còn trong thế hệ thứ hai, có thể lấy thí dụ từ trường hợp nhà văn Ocean Vuong. Sinh năm 1988, rời Việt Nam sang Mỹ khi mới hai tuổi, Ocean Vuong đương nhiên sáng tác văn học bằng tiếng Anh, ngôn ngữ mà anh được dạy ở trường Mỹ. Thế nhưng, khác với đa phần các nhà văn Việt Nam ở nước ngoài thuộc thế hệ thứ hai, một trong những chủ đề chính mà Ocean Vuong quan tâm khai thác và thể hiện thành công, chính là sự tìm về cội rễ dân tộc, những điều kiện chính trị - xã hội - văn hóa trong quá khứ đã làm nên số phận cuộc đời mình như trong hiện tại. Tiểu thuyết Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian nổi tiếng của anh, dưới hình thức một bức thư, một lời tâm tình thật dài mà đứa con trai gửi đến mẹ, có những đoạn viết về chiến tranh Việt Nam - qua sự hồi tưởng về những câu chuyện mà bà ngoại kể cho đứa cháu nghe hàng ngày - rất xúc động.

Ở đó tái hiện hình ảnh những người phụ nữ như là nạn nhân đầy đau khổ, chịu bất hạnh đủ kiểu trong một cuộc chiến tranh kéo dài và tàn khốc. Họ đã phải trả giá rất nhiều để vượt lên, để sống sót mà được nghe “những lời thì thầm vang vọng” từ thế hệ con mình. Trong tiểu thuyết Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian, qua tâm tình của nhân vật người kể chuyện, dù thế nào chăng nữa, chiến tranh cũng được nhận thức như là một phần quan trọng để làm nên bản sắc Việt Nam. “Suốt thời gian qua con tự nhủ mẹ con mình sinh ra từ chiến tranh, nhưng con đã nhầm rồi mẹ ạ. Mình sinh ra từ cái đẹp”, Chó Con, nhân vật người kể chuyện, đã khẳng định với mẹ mình như vậy trong bức thư không bao giờ được người viết gửi đi.

Văn học Việt Nam ở nước ngoài kể từ khi đất nước thống nhất đến nay đã có bề dày lịch sử 50 năm. Không dài, nhưng cũng không quá ngắn. Đủ để hình thành vài thế hệ tác giả với sự phong phú, đa dạng về ngôn ngữ, chủ đề và phong cách sáng tác. Cùng với dòng chủ lưu là văn học trong nước, văn học của người Việt Nam, người gốc Việt ở nước ngoài vừa đi rất sâu vào những vấn đề của quá khứ và truyền thống Việt, lại vừa mở rất rộng đến những vấn đề của mọi quốc gia dân tộc trong thời đại hội nhập, toàn cầu hóa. Bộ phận văn học ấy xứng đáng được ghi nhận và nghiên cứu cụ thể hơn nữa, về mọi phương diện cấu thành của nó.

Hoài Nam

Tin liên quan

Tin mới nhất

Người viết phóng sự bằng âm nhạc

Người viết phóng sự bằng âm nhạc

Hơn 40 năm gắn bó với báo chí và âm nhạc, nhà báo - nhạc sĩ Tào Khánh Hưng, Phó Tổng biên tập Báo Xây dựng đi qua hành trình đặc biệt: Từ công nhân xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình, đến làm báo và viết nhạc với nhiều ca khúc đoạt giải thưởng.

Món quà nghệ thuật từ Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa El Salvador tại Việt Nam

Món quà nghệ thuật từ Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa El Salvador tại Việt Nam

Thời báo Văn học Nghệ thuật trân trọng giới thiệu tới quý độc giả một sáng tác thơ đầy cảm xúc của Ngài Rubén Omar Orozco Burgos – Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa El Salvador tại Việt Nam, cùng với một tác phẩm hội họa giàu ý nghĩa mà Ngài dành tặng cho đất nước chúng ta. Đây không chỉ là món quà nghệ thuật, mà còn thể hiện tấm lòng trân quý, là nhịp cầu kết nối v

Lùi thời gian tổ chức Lễ hội Văn hóa Thế giới tại Hà Nội lần thứ nhất

Lùi thời gian tổ chức Lễ hội Văn hóa Thế giới tại Hà Nội lần thứ nhất

Do tình hình mưa bão, lũ lụt, sạt lở ở vùng núi Tây Bắc và ở Bắc Trung Bộ rất nghiêm trọng, có nhiều thiệt hại về người và tài sản nhân dân, Ban Tổ chức Lễ hội Văn hóa Thế giới tại Hà Nội lần thứ nhất quyết định chuyển thời gian tổ chức Lễ hội (dự kiến từ ngày 03-05/10/2025) sang ngày 10-12/10/2025, theo Cổng thông tin Bộ VHTTDL.

Hình ảnh Bác Hồ qua một số vần thơ ở Sơn La

Hình ảnh Bác Hồ qua một số vần thơ ở Sơn La

Trong những ngày tháng 9, cả dân tộc Việt Nam cùng hướng về Tết Độc lập và tưởng nhớ đến những chiến sĩ, người dân đã anh dũng hy sinh, những người có công với cách mạng và đặc biệt là những cống hiến của Bác Hồ vì nền độc lập tự do của dân tộc. Tháng 9 cũng là thời điểm Bác đi xa nhưng những tư tưởng, lời nói, hành động của Người vẫn hiện hữu cùng đất nước. Ở vù