Chuyện làng Văn nghệ: “Bèo dâu lên núi” làm kinh tế
Cuối tháng 11 năm 1975, chúng tôi vào học Khóa 20, Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Lớp tôi có nhiều anh, chị là cán bộ đi học. Trong số họ có nhà thơ Hoàng Trung Thu, dân tộc Tày, cháu ruột của nhà cách mạng Hoàng Văn Thụ. Anh nhỏ bé, da trắng, hay đọc thơ. Tôi được anh nhờ chép lại các bản thảo và trả công bằng kẹo lạc. Tôi còn nhớ truyện ngắn “Bèo dâu lên núi” của Hoàng Trung Thu được in báo kể về những người trẻ đã đưa bèo dâu lên ươm làm phân bón ở những chân ruộng lúa nước của người Tày, người Dao làm nên những mùa vàng. Đám sinh viên trẻ chúng tôi nhìn truyện ngắn được in báo thán phục. Riêng truyện ngắn này, tôi chép đi, chép lại hàng chục lần và anh đã cho tôi mượn chiếc xe Phượng Hoàng xích hộp mới coong đi thăm bạn một sáng chủ nhật.
Đã gần nửa thế kỷ trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ như in những buổi chiều nhà thơ Hoàng Trung Thu đứng bên cửa sổ trong căn phòng ở tầng 4, Nhà C2, Ký túc xá Mễ Trì nhìn về nơi xa, thả hồn theo những vần thơ mới viết:
Chiều ngoại ô
Bồ câu vờn giỡn gió
Réo rắt nhạc phi lao
Tháp vút cao vời vợi
Khói tỏa ngàn khan san
Tô đẹp nàng thiếu nữ
Nhộn nhịp buổi tầm tan…
Chúng tôi vỗ tay cổ vũ anh về những câu thơ hay và cũng hy vọng, sau bữa cơm sinh viên đạm bạc chiều nay, nhà thơ vừa lĩnh lương sẽ mời chúng tôi ra quán Ông Tư bệ trước cổng ký túc xá chiêu đãi mỗi thằng một cái kẹo lạc và một chén nước chè.
Nhà thơ Hoàng Trung Thu làm lớp trưởng. Chúng tôi hay đùa gọi anh là Bèo dâu lên núi. Anh miệt mài học hành để cùng tiến với đám trẻ chúng tôi. Anh tập đọc những bài khóa tiếng Nga nghe véo von như tiếng chim rừng. Anh kiếm gỗ đóng chiếc bàn con kê trong phòng để đêm đêm chong đèn sáng tác. Có lần kể về Nhà Cách mạng Hoàng Văn Thụ, giọng anh sang sảng tự hào. Anh trân trọng gọi người cậu ruột của mình là đồng chí.
…Đồng chí Hoàng Văn Thụ, sinh ra trong một gia đình nông dân, dân tộc Tày có truyền thống yêu nước và hiếu học tại làng Phạc Lạn, tổng Nhân Lý, châu Văn Uyên (nay là thôn Nhân Hòa, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn). Với truyền thống cách mạng của gia đình, quê hương và với lòng yêu nước nồng nàn, ông tham gia, vận động nhiều thanh niên yêu nước cùng tham gia phong trào đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Phan Bội Châu, để tang chí sĩ Phan Chu Trinh.
Năm 1926, ông cùng Lương Văn Tri thành lập nhóm thanh niên yêu nước ở Lạng Sơn. Cuối năm 1927, ông cùng Lương Văn Tri sang Quảng Tây (Trung Quốc) – Nơi Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội đang tổ chức các lớp huấn luyện chính trị. Khi ông vừa đến Quảng Tây, bị đặc vụ vây bắt. Ông chạy thoát về Long Châu
Ngày 25/8/1943, đồng chí Hoàng Văn Thụ bị cảnh sát, mật thám Pháp vây bắt ở khu Tám Mái, phố Kim Mã, Hà Nội. Biết đồng chí là cán bộ cấp cao, chúng đưa đồng chí Thụ về giam tại Nhà tù Hỏa Lò. Chúng dùng nhiều thủ đoạn từ dụ dỗ ngon ngọt, đến tra tấn dã man nhưng đồng chí vẫn kiên trung một lòng với Đảng
Sáng ngày 24/5/1944, thực dân Pháp mang đồng chí ra xử bắn. Đồng chí ung dung ra pháp trường Tương Mai. Quan toà hỏi đồng chí có cần nói lời cuối cùng, đồng chí nói: “Trong cuộc đấu tranh sinh tử, giữa chúng tôi, những người mất nước và các ông, những kẻ cướp nước, sự hy sinh của những người như tôi là một sự dĩ nhiên. Chỉ biết rằng cuối cùng chúng tôi sẽ thắng”. Cha cố hỏi đồng chí có cần rửa tội hay không, đồng chí đáp: “Cảm ơn ông, tôi không có tội gì. Nếu yêu nước, cứu nước là có tội thì những người Pháp hiện giờ đang đấu tranh chống phát xít Đức bên nước ông đều là có tội cả. Ông hãy về hỏi xem họ có tội không?”. Năm đó người chiến sĩ cộng sản kiên trung Hoàng Văn Thụ mới 38 tuổi.
Trước khi bị địch bắn, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã viết một bài thơ nhắn gửi các đồng chí và nhắn gửi bà Hoàng Ngân – người vợ đã đính ước đang bị giam ở xà lim bên cạnh. Đó là bài thơ Nhắn bạn...
Kể đến đây, Nhà thơ Hoàng Trung Thu đứng trang nghiêm, xúc động. Ông cao giọng, cất tiếng:
Việc nước xưa nay có bại thành
Miễn sao giữ được trọn thanh danh
Phục thù, chí lớn không hề nản
Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.
Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm,
Chí còn theo dõi buổi tung hoành.
Hỡi bạn gần xa hăng chiến đấu,
Truớc sau xin giữ tấm lòng thành!
Sau khi ra trường, Nhà thơ Hoàng Trung Thu về Lạng Sơn. Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Duy Chiến có lần kể lại với tôi: Cán bộ, viên chức Hội Văn nghệ Lạng Sơn không thể quên được hình ảnh một Phó Chủ tịch Hội kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Xứ Lạng.
Trong một bài báo viết cách đây đã lâu, Nguyễn Duy Chiến kể tường tận (xin trích dẫn):
“…Ông (Nhà thơ Hoàng Trung Thu) đọc thơ oang oang cả ngày không biết chán. Ông thương cán bộ dưới quyền lương ba tháng mới được lĩnh một lần không đủ mua mì tôm ăn trong ngày nên thỉnh thoảng lại “phát chẩn” mỗi người 5 nghìn đồng.
Những năm tám mươi của thế kỷ trước, Hoàng Trung Thu còn xung phong làm “thủ lĩnh” đi buôn hàng Trung Quốc từ Lạng Sơn vào Nam. Không cần biết lỗ lãi thế nào nhưng gặp bạn buôn tâm huyết, tri kỷ là ông giở thơ và rượu ra... khoản đãi.
Kết quả, cơ quan lỗ nặng và bản thân ông cũng gánh một món nợ kha khá. Thế nhưng ông vẫn vô tư cười nói và làm thơ. Ông động viên bọn trẻ lớ ngớ, ngoài thơ ca chẳng hiểu biết gì nhiều sự đời rằng: “Yên chí. Chú sẽ gỡ được ngay. Nhất định Tết này, mỗi đứa sẽ được một chiếc xe máy”.
Cả bọn tròn xoe mắt, hy vọng. Nhưng rồi, ông cứ lún sâu vào nợ nần nên phải từ bỏ các chức vụ lãnh đạo Hội và Tạp chí. Nhưng với thơ thì ông vẫn viết ngày, viết đêm. Hàng loạt tập thơ đã ra đời như: “Biên giới mùa hoa”, “Vọng trời xa”, “Hôn mặt trời”.v.v.
Một thời gian, ông bỗng “biến mất”. Nghe nói ông đi sưu tầm những bài thuốc hay, những cây thuốc quý ở các bản làng xa xôi, rồi lại nghe ông đi về Hà Nội, vào thành phố Hồ Chí Minh để bàn thảo với các lương y danh tiếng.
Thời gian sau, ông xuất hiện ở trụ sở Hội Văn nghệ với một tập sách nhỏ còn thơm mùi giấy mực. Ông hào hứng bảo: Đây là công trình nghiên cứu mang tên “Bí quyết sống lâu”.
Các bệnh trong cơ thể người đều do chất độc ứ đọng ngăn cách sự lưu thông, vậy nên cần phải khai thông nó. Nào có ai xung phong chữa bệnh thì chú giúp cho.
Nhiều người e ngại. Thơ thì cố nghe được chứ bị cái kim sáng loáng chọc vào ven để “thầy” Thu lấy những sợi xơ trăng trắng thì chỉ nghe cũng đã... phát hoảng.
Và cũng chỉ vì cái “công trình nghiên cứu” này mà nhà thơ Hoàng Trung Thu tiếp tục làm “lõm” mất vài chục triệu tiền túi của “bà xã”.”…
Sau này, tôi có dịp lên thăm Nhà thơ Hoàng Trung Thu. Anh tiếp tôi rất vội rồi lên chiếc xe đạp cà tàng phóng đi. Thì ra, anh đang gặp khó khăn, nợ nần chồng chất khi vay tiền đầu tư vào việc làm du lịch trên đỉnh Mẫu Sơn. Nhà thơ mộng mơ như anh sao có thể thành công trên thương trường cạnh tranh khắt khe, sòng phẳng!?
Rồi bất ngờ tôi nhận tin anh đột ngột rời cõi tạm. Gặp nhà báo Nguyễn Duy Chiến, anh cho tôi biết rõ hơn.
…Hôm ấy, Hội Văn học Nghệ thuật Lạng Sơn có tổ chức lễ kỷ niệm. Nhà thơ Hoàng Trung Thu được mời lên phát biểu. Để kết thúc, anh đọc bài thơ vừa sáng tác. Ngay sau khi đọc xong bài thơ ca ngợi vẻ đẹp đất và người xứ Lạng, tiếng vỗ tay vừa dứt, về lại chỗ ngồi, anh gục xuống và thanh thản ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn của bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp thơ ca.
Vốn là cháu ruột của đồng chí Hoàng Văn Thụ, một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng nên đang học lớp 6 trường Việt Bắc (thị xã Lạng Sơn), Hoàng Trung Thu được Trung ương đón về Hà Nội học. Sau khi học xong chương trình Trung cấp đạo diễn kịch nói, Hoàng Trung Thu trở về Lạng Sơn công tác. Đội ngũ Văn nghệ sĩ xứ Lạng bắt đầu biết đến Hoàng Trung Thu với những kịch bản sân khấu và thơ. Ông nhanh chóng nổi danh với những bài thơ tình lãng mạn cùng những tứ thơ lạ triết lý về cuộc sống. Thời gian này, ông được một đồng chí lãnh đạo cấp cao vốn là bạn chiến đấu của đồng chí Hoàng Văn Thụ đón về nhà nuôi ăn học. Chỉ trong vòng vài năm, Hoàng Trung Thu liên tục tốt nghiệp những trường danh tiếng, đó là Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Báo chí (Trường Tuyên giáo Trung ương) và Đại học chính trị. |

Không chỉ dành riêng cho thiếu nhi, thơ đố (còn gọi là câu đố) vốn là một bộ phận của văn học dân gian cổ truyền,...
Bình luận