Để những mộ bia kia gọi được mặt trời
Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, Hội Nhà báo kiểm kê có 512 nhà báo liệt sĩ. Trong số đó có gần 20 người cũng đồng thời là những nhà văn. Hầu hết họ đã hy sinh khi còn rất trẻ.
Có thể anh chẳng bao giờ còn thấy
Một làn môi em hay một nụ cười
Nhưng tất cả sẽ thành vô nghĩa
Nếu những mộ bia kia không gọi được mặt trời
(Trích Trường ca Badan khát của Thu Bồn)
Trong kháng chiến, phải đồng thời làm bao nhiêu công việc chiến đấu và sản xuất, thời gian dành cho việc sáng tác không nhiều. Một số nhật ký, sổ tay ghi chép của ba nhà văn được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: Nguyễn Ngọc Tấn, Lê Anh Xuân, Chu Cẩm Phong và Dương Thị Xuân Quý… không chỉ cho bạn đọc biết cuộc sống, cách viết của nhà văn, mà điều làm người đọc thêm thương tiếc là nhận ra mỗi người đang chuẩn bị cho những tác phẩm lớn hơn, mà nhân vật trung tâm luôn làm người viết khâm phục đến kinh ngạc là lòng yêu nước yêu cách mạng của người dân.
Một trong những suy nghĩ trở đi trở lại trong những ghi chép của nhà văn Nguyễn Thi: “Nhân dân đối xử tốt, đầm ấm tới mức mà anh nghĩ mình có chết cũng không có gì đáng ngại. Một cử chỉ tốt làm cho con người vui, sung sướng và bỗng nhiên cảm thấy mình cao lớn hơn, can đảm hơn… Biết lấy gì đền đáp xương máu nhân dân đã hy sinh không tính toán để bảo vệ cách mạng, những năm tháng này? Mai ngày, đất nước thống nhất, cách tưởng niệm xứng đáng nhất chưa phải là xây những tượng đài to tát mà phải là tạo dựng đời sống no đủ, hạnh phúc cho những con người còn sống”.
Cuộc đời thật của nhiều nhà văn có nhiều chuyện còn nhiều ý nghĩa và hấp dẫn hơn những gì mỗi người đã viết. Nghĩ về cái chết của những văn nghệ sĩ, nhà văn Nguyễn Chí Trung từng viết: “Ai đó đã nói rất đúng rằng: Tài năng nghệ thuật là một cái gì đó có tính chất đơn nhất. Người sáng tác văn học mất đi là mất chính họ, buồn vui và khát vọng của một tâm hồn đơn nhất mà cuộc sống đã gieo lên đấy những hạt giống nảy mầm theo một dáng riêng, chỉ riêng họ có, mãi mãi không bao giờ có lại”.
Ảnh minh họa.
Nhiều năm qua, việc tổ chức công bố các di bút của liệt sĩ như nhật ký Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, nhiều tập sách do nhà văn Đặng Vương Hưng chủ xướng đã mách với chúng ta một khả năng rất hiện thực là trong mấy chục vạn liệt sĩ hy sinh, họ mang theo nhiều, rất nhiều những tác phẩm văn chương hay mà chưa kịp thực hiện. Lớp chiến sĩ trải mấy cuộc chiến tranh, cả chiến tranh giúp nước bạn Campuchia và biên giới phía Bắc đã trở thành nhiều nhà văn với nhiều tác phẩm xuất sắc, càng khẳng định niềm tin đó.
Nhưng không chỉ văn nghệ sĩ mới là phiên bản “người duy nhất”. Điều bí hiểm, kỳ diệu và thiêng liêng là tạo hóa đã sinh ra mỗi cá thể người là một tạo phẩm duy nhất. Thế gian trở nên giàu có vô cùng nhờ những cá thể không lặp lại. Vì thế sự mất đi của mỗi người là không thể thay thế. Không gì thay thế được những người con của những bà mẹ cụ thể. Hàng chục vạn liệt sĩ đang nằm trong các nghĩa trang rải khắp đất nước gánh trên đó nỗi đau, nước mắt của cả mấy chục triệu ông bố, bà mẹ, vợ, chồng, con cái cụ thể.
Theo số liệu chúng tôi biết, đã có 1.146.250 anh hùng, liệt sĩ đã hi sinh, trong đó có 191.605 Liệt sỹ hi sinh trong kháng chiến chống Pháp; 849.018 Liệt sỹ hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ; 105.627 Liệt sỹ hi sinh trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo…). Trong các nghĩa trang đã quy tập có khoảng 300.000 mộ chưa biết tên, và vẫn còn hơn 200.000 người chưa tìm thấy hài cốt. Sau 50 năm đất nước thống nhất, về cơ bản việc quy tập phần mộ các liệt sĩ hy sinh trên các chiến trường, kể cả nước bạn vẫn chưa thể nói là đã hoàn thành. Mới đây, Nghĩa trang Liệt sĩ Vị Xuyên của các chiến sĩ hy sinh trong đánh quân bành trướng phía Bắc đợt 2 (1984-1989) đã được nâng cấp.
Hàng năm, nhiều dịp lễ hội, các nghĩa trang đã có nhiều hình thức tưởng niệm. Nhưng năm tháng qua đi, đồng đội thưa vắng dần vì tuổi cao, vì lần lượt ra đi, vì quân đội xây dựng tinh, gọn, mạnh, phiên hiệu các đơn vị cũ không còn, người thân gần gũi cũng ngày càng ít, cho nên hầu hết các nấm mộ cũng sẽ hóa thành vô chủ. Nhưng nằm dưới nấm mộ mà đã tốn rất nhiều công sức và tâm huyết mới tìm kiếm, quy tập về đó là những con người. Họ là ai, từ đâu ra đi, đã làm gì trước khi được xếp hàng trong những nghĩa trang này? Chúng ta nhớ lại lời di chúc Viết dưới giá treo cổ của nhà văn Tiệp Khắc Julius Fucik: “Tôi chỉ tha thiết yêu cầu các anh một điều là nếu anh đã từng sống qua cái thời đại này thì hãy đừng quên người tốt và cũng đừng quên người xấu. Các anh hãy chịu khó đi tìm những tài liệu những người đã chết vì họ và vì các anh. Những ngày tươi sáng sắp tới rồi, tới lúc đó, hôm nay đã sắp là quá khứ, nhân dân sẽ nhắc lại thời đại và những anh hùng vô danh đã sáng tạo ra được lịch sử đó. Tôi mong muốn mỗi người đều hiểu rằng, những người anh hùng vô danh là không có, họ đều có tên, có mặt mũi, có chí hướng và hy vọng, và cái đau khổ của một người tầm thường nhất trong họ cũng không phải là nhỏ bé trước cái đau khổ của những người danh tiếng ngàn thu bất hủ nhất. Tôi mong các anh biết yêu họ như người bạn, người thân, người đồng chí của các anh vậy”.
Vì thế không nên coi trách nhiệm đối với các liệt sĩ đến đây là kết thúc. Phải làm sao để các nấm mộ sống tiếp đời sống của người đã nằm xuống. Gần đây, nhiều tốp bạn trẻ đã dùng công nghệ để làm mới, làm sống động chân dung một số liệt sĩ. Đó là một việc làm rất đáng khuyến khích. Nhưng với sự trợ giúp của những người có khả năng viết, những chân dung ấy có thể kể lại câu chuyện cuộc đời mình, cuộc chiến đấu của mình và đồng đội. Ước gì sau những cuộc viếng thăm rộn ràng đông đúc vào những dịp kỷ niệm, là tổ chức để có những người tìm hiểu sâu hơn câu chuyện cuộc đời những con người: “Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc/ Nhưng nếu ai cũng tiếc tuổi hai mươi, thì còn chi Tổ quốc?” (Thanh Thảo). Đó là những cuộc đời không ai giống ai, nên mỗi nghĩa trang trên đất nước, sẽ là một kho chuyện kể bất tận. Mỗi nghĩa trang từ nay không chỉ là tập hợp của những nấm mộ im lặng, mà sẽ là một kho năng lượng tinh thần tiếp sức cho những người còn sống, là những con mắt ngày ngày dõi theo bạn có sống xứng đáng với những hy sinh vô lượng mà những người ngã xuống hy vọng và ao ước không.
Trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc, chắc không có thời nào, các chàng trai ở những vùng nông thôn có dịp rời làng quê, bằng đôi chân của mình vượt vạn dặm núi đèo Trường Sơn vào tận đồng bằng Nam Bộ. Đã từng có hàng trung đoàn quần thảo với giặc và hy sinh ở Đồng Tháp Mười, được dân chúng lập miếu thờ những người lính Bắc như người thân của mình. Hãy nhớ một câu thơ của Thu Bồn: “Nhưng tất cả sẽ trở thành vô nghĩa/Nếu như mộ bia kia không gọi được mặt trời!”. Hy vọng dịp kỷ niệm 80 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ sắp tới (1947-2027 ), một số Chương trình Nghệ thuật bằng ánh sáng như thế sẽ được tổ chức ở các nghĩa trang liệt sĩ, mở đầu cho một cách tưởng niệm mới, nhiều sức nhắc nhở lương tri những người xây dựng đất nước trong hòa bình.
Mấy năm gần đây, cây bút nữ Phan Thúy Hà qua các tập ghi chép đã chọn cho mình một lối đi trong tìm lại một bộ mặt của lịch sử đất nước. Những trích đoạn, Gia đình, Đừng kể tên tôi, Tôi là con gái của cha tôi, Đoạn đời niên thiếu, Qua khỏi dốc là nhà, Những ngày những tháng những năm, tác giả lặng lẽ tìm gặp và ghi lại lời kể của những người sống qua những năm tháng chiến tranh và cách mạng trên nhiều miền, vào nhiều thời điểm khác nhau, ở hai ba phía của đất nước những năm còn chia cắt. Quen với một dòng văn chuyên viết về những người anh hùng, cây bút nữ, bằng trải nghiệm của một người lớn lên ở một làng quê heo hút sau chiến tranh, tiếp cận với một hiện thực khác, nơi cuộc sống hậu chiến ngổn ngang nhiều số phận phải tự lực bươn trải để tồn tại, bất chấp trong quá khứ họ từng ở bên nào.
Chiến tranh là vậy. Để có thể giành chiến thắng, mọi người phải gồng mình lên hết sức có thể. Người chỉ huy luôn cần phải quyết đoán trước mọi khả năng, không phải lúc nào cũng chọn được và được chọn phương án tối ưu. Sự hy sinh của người lính là cái giá phải trả để có chiến thắng. Người lãnh đạo, chỉ huy không phải là thiên sứ, họ cũng chỉ là người, có thể hơn những người khác vài mặt nào đó, nhưng mệnh lệnh của họ nhất định phải được chấp hành. Không tránh khỏi trường hợp những quyết định ngay và luôn đó dẫn đến những hy sinh mà sau này mới thấy là có thể tránh khỏi. Chiến thắng cuối cùng của chúng ta đã biện minh cho cả những sự lựa chọn không đáng có đó. Nhưng chính vì đã là những người còn sống và hưởng thụ nền độc lập, mà hậu thế phải lắng nghe câu chuyện của những người hy sinh để đất nước có hòa bình.
Thật ra, chiến tranh, với những quy luật nghiêm ngặt của nó không dung thứ cho mọi tự do mà con người bình thường đáng được hưởng. Những người tài hoa, “có máu văn nghệ”, có trường hợp rất khó trở thành một người lính nghiêm chỉnh. Nhưng cũng có một nghịch lý khác, là chính chiến tranh, trong chiến đấu gian khổ và khốc liệt, lại là dịp để nhiều người bộc lộ phẩm chất cao đẹp, và lắm khi phi thường, lại là nguồn cảm hứng cho những sáng tạo văn học nghệ thuật. Rất nhiều bí ẩn của chiến tranh còn ẩn giấu trong cuộc đời những liệt sĩ trong các nghĩa trang.
Còn là hàng triệu số phận gánh trên vai hậu quả chiến tranh. Gần 5 triệu nạn nhân chất độc da cam đang ngày đêm chống chọi để sinh tồn. Còn hàng nghìn cựu chiến binh trong các trung tâm điều dưỡng thương bệnh binh tâm thần kinh ở nhiều vùng trên cả nước. Đó là di chứng họ mang trên mình nhiều năm sau chiến tranh. Không chỉ các căn bệnh hiểm nghèo, mà còn cả những vết sẹo tinh thần không thể mờ đi trong tâm trí, khi kích động họ dễ gây nguy hiểm cho bản thân và người bên cạnh. Hàng chục vạn gia đình những người lính trở về không tìm thấy hạnh phúc ngày đoàn tụ như họ đã từng ao ước. Còn là hàng triệu gia đình từng ở phía bên kia. Và câu chuyện của gần 5 triệu người Việt đã rời đất nước trong nhiều hoàn cảnh và thời kỳ, đang sinh sống ở nước ngoài. Nghĩa là, dù đã lùi xa nửa thế kỷ, nhiều hệ lụy của chiến tranh vẫn hiện diện trong cuộc sống hôm nay.
Nhưng có một di sản chiến tranh chỉ bộc lộ mặt tích cực và vẫn được luôn quý trọng, đó là nền văn học nghệ thuật từng là nền tảng tinh thần của cả đất nước, là một sức mạnh đã giúp quân dân ta giành chiến thắng lịch sử. Trong không gian và thời gian thoáng rộng của văn hóa, văn nghệ thời mở cửa và hội nhập, trên các kênh truyền thông đa phương tiện, những tác phẩm ra đời trong chiến tranh và cách mạng vẫn giữ được một vị thế xứng đáng. Nhiều tìm tòi của lớp trẻ, biết tựa vào và làm mới những tác phẩm thời trước vẫn nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt. Nhưng còn nhiều, rất nhiều câu chuyện về số phận con người mà trong chiến tranh, các văn nghệ sĩ chưa thể, chưa được phép, chưa thể nhận ra, vì mục đích: Tất cả cho chiến thắng. Hòa bình và độc lập cung cấp cho lớp trẻ những gì mà tiền nhân chưa thể có. Mạch sống của con người Việt Nam trong chiến tranh và cách mạng vừa mời gọi, vừa thách thức tài năng thế hệ trẻ hôm nay.

"Câu thơ như gan ruột Phơi ra giữa trời mây Mỗi người một số phận Ngang qua thế gian này…"
Bình luận