“Toả sáng để tồn tại”
“Câu thơ như gan ruột Phơi ra giữa trời mây Mỗi người một số phận Ngang qua thế gian này…”
Không phải ngẫu nhiên, Trần Nhuận Minh “đặt” bốn câu thơ này làm tựa cho tập “Nhà thơ và hoa cỏ” (tập thơ cùng trường ca “Bản xônat hoang dã” đoạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt II năm 2007).
Bốn câu thơ trên, Trần Nhuận Minh rút ra từ bài “Bạn thơ mời rượu bên sông Tiền” (viết tại Sóc Trăng – Mỹ Tho, 30-10-1999). Tính đến thời điểm bài thơ ra đời, Trần Nhuận Minh đã trải ngót bốn mươi năm (kể từ khi ông công bố những bài thơ đầu tiên vào đầu những năm sáu mươi) thâm nhập cuộc sống với sự quan sát, ngẫm ngợi, chiêm nghiệm, để nhận thức và nhận thức lại những cái trông thấy cùng những điều chỉ có thể cảm nhận, từ đó thức nhận, cấu trúc tư duy thơ gần đúng với những quy luật vận động bất biến của tồn tại. Sau thời điểm đó, ông vẫn miệt mài sáng tạo, để chưa đầy năm năm sau, mở đầu trường ca “Bản xônat hoang dã” (in lần đầu năm 2003), Trần Nhuận Minh dẫn lời “Kinh Thánh”:
“Hãy gõ cửa rồi cửa sẽ mở
Hãy tìm rồi người sẽ gặp…”
Qua đó có thể thấy hành trình thơ của Trần Nhuận Minh đã đến rất gần chân lý mà ông muốn nhận chân. Đó là bước tiến trong tư duy của nhà thơ, mặc dù đã có lần Trần Nhuận Minh viết: “Ta rong chơi thôi mà, có tư tưởng gì đâu…” (câu kết trong bài “Chơi thuyền trên vịnh Hạ Long”, 1985).
Trần Nhuận Minh
Trên hành trình thơ của mình, Trần Nhuận Minh từng bước vượt qua những nấc thang dẫn tới sự tiếp cận bản chất chân thực của sự sống, mà bản chất ấy luôn luôn bị khuất lấp phía sau bức màn vô hình do sự đan cài, xâm lấn giữa cái thực và cái hư, làm méo mó, thậm chí bịt kín khả năng cảm nhận của không ít người làm thơ.
Ở mỗi lần chuyển dịch từ nấc thang này lên nấc thang tiếp theo, ông luôn tỉnh táo và sẵn sàng tiếp nhận bằng trực giác trong sự soi xét thấu đáo các mối quan hệ, liên hệ ràng buộc giữa các thành tố làm nên sự đa dạng và phong phú của hành tinh Trái đất; tức là thực hiện công việc xé toang bức màn mờ ảo để giải phóng tầm nhìn, cải thiện nhận thức bản chất sự sống, bằng ngôn ngữ thơ. Hành trình này không duy nhất đối với nhà thơ Trần Nhuận Minh. Tuy nhiên, trên hành trình đó, mỗi cá nhân nhà thơ đích thực đã (và sẽ) có lối tiếp cận riêng và đạt thành tựu ở mức độ khác nhau.
*
Thành tựu thơ của Trần Nhuận Minh trên hành trình tiếp cận bản chất chân thực của sự sống, tính đến thời điểm hiện tại, thể hiện tập trung cao độ ở hai trường ca “Đá cháy” và “Bản xônat hoang dã”. Hai văn bản này, ra đời cách nhau mười tám năm (lần lượt là 1985 và 2003), cho thấy sự chuyển dịch trong tư duy thơ của Trần Nhuận Minh là nhất quán, với biên độ tiếp cận đối tượng thăng tiến qua nhiều góc độ nhận thức và phương thức lựa chọn hình thức biểu cảm tương hợp.
Bìa tập thơ "Bản sônat hoang dã"
Tạp chí Thơ số 5&6 – 2020 in trường ca “Đá cháy” của nhà thơ Trần Nhuận Minh với lời “tường trình” của tác giả: trường ca được khởi thảo từ những năm 1962-1969, hoàn thành vào năm 1985, nhưng “cuối cùng, tôi kiên quyết cắt bớt tất cả những gì mà tôi cho là kể lể sự kiện và minh hoạ, chỉ còn giữ lại non 1000 dòng thơ” (bản thảo ban đầu gần 5000 dòng thơ).
Trường ca “Đá cháy” in trong tập “Nhà thơ và hoa cỏ” (cùng trường ca “Bản xônat hoang dã”, 2014) cũng đã có sự “cắt gọt”, nhưng trường ca “Thợ mỏ 1985”, vẫn ở dạng trích và chưa đặt số chương (từ I đến IV). Từ lúc khởi thảo đến khi chính thức định hình (như bản in trong tạp chí Thơ số 5&6 – 2020), trường ca “Đá cháy” đã trải qua một chặng đường dài với sự “điều chỉnh” nghiệt ngã của tác giả, nhằm đạt tới sự nhất quán và tương hợp, giữa nội dung và hình thức, mà nhà thơ lựa chọn cho hành trình thơ của mình; trong đó, việc đoạn tuyệt với “kể lể sự kiện và minh hoạ” là một “chiêu thức” để tiệm cận chân-thiện-mỹ một cách giản dị mà hiện đại.
Giữa hai trường ca “Đá cháy” (bản in năm 2020) và “Bản xô nát hoang” dã có những tương đồng căn bản và những khác biệt tất yếu. Tương đồng ở cách nhìn và lý giải sự sống, trong sự dịch chuyển cách nhìn và thể hiện đối với các mối quan hệ hữu cơ giữa các hiện tượng và sự vật, giữa cái trông thấy và cái chỉ có thể cảm nhận, nâng lên thành triết lý mang tính luân lý, đạo lý, tạo nên những cung đoạn phức hợp, nấc thang trước làm đà để bước tiếp lên nấc thang cao hơn.
Ở trường ca Đá cháy, nhà thơ viết: “Mặt trời lặn vào than – hiện ra thành lửa”. Đây không phải là phát hiện mà là từ nhận thức này dẫn tới một nhận thức khác, mang tính triết luận:
Bài học của than Toả sáng
KHÔNG TOẢ SÁNG THÌ KHÔNG TỒN TẠI
và trở thành điệp khúc và biến tấu trong suốt Chương IV – Lửa, với những phức điệu trầm bổng:
- Anh chạm vào em
Đá chạm vào đá
Lửa âm âm chín tháng mười ngày
Từ em, những đốm lửa ra đời
Mang sức cháy của anh trong cốt tuỷ…
(Những “đốm lửa” này rồi cũng “Cháy để tồn tại”).
- Mẹ đã sinh ra con như sinh một Tảng Đá
…
Mẹ sinh ra con như sinh một Ngọn Lửa
…
Nhưng trước hết
Mẹ đã sinh ra con là Người
- Không có Than, suốt đời tôi sẽ thiếu
Một cái gì có thể tạo thành tôi
- Hoàng hôn Hạ Long, đỏ sao mà gay gắt
Má em hồng tới tận canh khuya
- Tôi sẽ đầu thai làm Ngọn Lửa
Cháy điên khùng trong đất tối âm u…
Về logic, triết luận “Không tỏa sáng thì không tồn tại” của nhà thơ khó thể đứng vững; bởi, hòn đá có khả năng cháy (than đá), khi chưa đốt thì vẫn tồn tại, khi cháy đã thành lửa (nhiệt năng), cháy rồi thành tro bụi - vật chất trong vòng quay sinh-diệt được thực hiện do sự chuyển hoá luân hồi đã biến dạng thành các trạng thái tồn tại độc lập, có tên gọi khác nhau. Song, triết luận “Tỏa sáng” đã tạo thế đứng vững vàng cho những câu thơ biến tấu và điệp khúc, khắc họa rõ nét những ý thơ nung nấu bấy lâu. Trần Nhuận Minh đã tỏa sáng khi “Phơi ra giữa trời mây” những câu thơ từ gan ruột và cũng từ đó “phơi ra” số phận của mình. Cái số phận đã gắn nhà thơ với vùng than và những người thợ mỏ, như một định mệnh
Suốt đời tôi nặng gánh
Nỗi niềm Người
Mà không biết đổ vào đâu…
Trời không cao
và biển cũng không sâu…
Nỗi niềm ấy được “xác định” trong “Bản hợp đồng” giữa nhà thơ và đá:
Rằng:
Tôi đã sống ở đây
sẽ chết ở đây
như một Người Thợ
Ngày đêm trút linh hồn vào chữ…
và
Mặt trời lặn vào than
hiện ra thành lửa
Họ lặn vào thơ tôi… thành câu
Thơ tôi nổi chìm trong bao số phận
Chọn “Mảnh đất hình cánh dơi” làm quê hương, trái tim nhà thơ “tự hát lên/ Khi gặp hòn than và người thợ mỏ”. Gắn bó với vùng than đông-bắc của Tổ quốc, những biên độ tình cảm và sắc màu trong thơ Trần Nhuận Minh luôn dịch chuyển góc nhìn, để có được những câu thơ gan ruột “Phơi ra giữa trời mây”, bày tỏ sự chiêm nghiệm thăng trầm:
Lòng dân dù ở thời nào
Vẫn như mây nước thấm vào cỏ hoa
(Ông Hủi)
hay
Bao việc phi thường rồi cũng hoá thường thôi
và
Cứ im lặng là tự nhiên hiểu hết
(Tiễn bạn ở rạp chiếu bóng)
Rồi lúc ngoái lại nhà thơ nhận thấy:
Khi trời đất bỗng nhiên ắng lạ
Neo nhà đi! Bão lớn sắp đến rồi
(bài số 5 trong Ngẫu hứng)
và
Cái Ác vỗ vai cái Thiện
Cả hai cùng cười đi về tương lai…
(bài số 9 trong Ngẫu hứng)
Dường như Trần Nhuận Minh xây dựng trường ca Đá cháy trên nền tảng âm hưởng nhạc rock. Tính điệp khúc, với những biến tấu đa dạng, làm nên nhịp điệu gắn kết các ý thơ, câu thơ thành những chuỗi âm thanh vừa mềm dẻo vừa sắc cứa của sự tăng tiến tiết tấu, vừa khoan thai vừa hối hả, biểu tả thang bậc hoà quyện giữa con người và môi trường thiên nhiên vùng mỏ đầy sóng gió, nơi mà ông đã lặn vào cuộc sống của những người thợ đầy gian nan vất vả, đầy nghịch lý, nhiều biến động, để từ đó thơ ông chất chứa những suy tư mang tính bản ngã rất rõ rệt. Cái tôi trữ tình của nhà thơ hoà làm một vào cái tôi đầy sinh khí của vùng đất ông tự nguyện hiến dâng cuộc đời. Ông ví mình như tảng đá đen liền khối với ngọn lửa bên trong âm ỉ cháy, cháy đến tận cùng; nhưng…
Nhưng tôi không tắt đâu
Không bao giờ tắt
Như vỉa than
Tôi nhô lên một mình
Xấu xí và đơn độc
Trong khi chín mươi chín phảy chín phần trăm tôi
Liền khối dưới đất sâu
Chân xoạc rộng dài
Từ đáy sông Lục Đầu đến đáy vịnh Bắc Bộ
Và lặng im
Như một tiếng vang…
Và ý thơ nâng lên thành tứ thơ vững vàng, khoẻ khoắn:
Vinh nhục vui buồn lặn vào cuộc đời tôi
Như vết than lặn vào da thịt
Có thể sau này khi tôi chết
Những nỗi niềm thành khối vẫn không tan…
Tôi sẽ đầu thai làm Ngọn Lửa
Cháy điên khùng trong đất tối âm u…
Có cái tôi tự sự ấy mới có cái tôi đồng cảm mang tính đồng loại, chung sống cùng đồng loại - cùng cháy đấy mà vẫn không tắt, không tan.
Âm hưởng rock trong trường ca “Đá cháy” đem đến cuộc sống nơi trần gian, cụ thể là vùng than bên vịnh Hạ Long huyền ảo, một sự cháy để tồn tại. Ngược lại, âm hưởng xônat đã nâng cái tôi trữ tình hoà vào cái tôi hư ảo ở trên cao, được biểu cảm trong trường ca Bản xônat hoang dã như vòng tuần hoàn lớn của nước. Đến tác phẩm này, nhà thơ - Trần Nhuận Minh “Bừng thức”:
Hạt mưa mơ hồ nhuốm làn mây mong manh
Làm ngào ngạt bao nỗi niềm dưới đất
Hư ảo hỡi! Giữa vô cùng Còn, Mất
TA là ai? Thăm thẳm có TA không?...
Thoát khỏi tự sự, nhà thơ chủ động
Là tình nhân ba trăm sắc thu buồn
Mọi yêu ghét ta chẳng cần nhớ nữa
Vĩnh biệt nhé, ráng chiều côi cút gió
Ta một mình với một Đấng Mê Tơi!...
Nhận ra và bay theo Đấng Mê Tơi, một lần nữa nhà thơ thực hiện cuộc dấn thân cho thơ. Việc đoạn tuyệt với “kể lể sự kiện và minh hoạ” để hoàn thiện Đá cháy là chưa dứt khoát, còn vấn vương; nhưng lần này người thơ hoàn toàn dâng hiến để có được “Bản xônat hoang dã” tràn đầy ánh sáng, để trông thấy “Cái Màn đêm phản trắc đầy cạm bẫy” và “Cái Ánh ngày chính trực anh minh” hoà hợp làm nên sự tuyệt mỹ:
Ấy là lúc mặt trời sắp lên
Và ráng chiều sắp tắt
Không gian đằm thắm
Huyền ảo mang
Là lúc cùng sinh ra
Thiên Thần và Quỷ Sứ
Lúc Nhà Thơ và Kẻ Trộm
Cùng hào hứng bước ra khỏi nhà
Ánh sáng ấy là ánh sáng của tâm hồn, của thức nhận bằng trực giác, ước mong soi tỏ nhiều điều uẩn khúc giữa cái thực và cái ảo. Đó là Mặt Đất thì thuần phác, còn Ánh Trăng vừa hào hoa vừa giả dối, nhưng không xua đuổi nhau, mà tự bao đời quấn quýt “Không thể nào tách ra được…”; là nỗi oan khuất của Nguyễn Trãi gắn liền với đêm dông gió
Cụ đâu biết sớm mai
Cùng với mặt trời lên
Câu thơ phải rơi đầu…
là khi chiều tháng bảy sụt sùi mưa, Nguyễn Du lâm bệnh trọng nhưng không chịu uống thuốc, mà nhờ người
Sờ xem ta chết đến đâu rồi
Ừ. Được!
Cụ nói thế và đi
Lẫn trong Thập Loại Chúng Sinh…
và, đến lượt mình
Cơ thể tôi nhẹ bỗng
Như một sợi tơ trời
Đến mức có thể tự bay lên
Và mất tích trong thinh không
Như nó không hề có…
Ánh sáng ấy cho thấy, giữa con người và thiên nhiên hằng xoắn xuýt lấy nhau, không bao giờ và không thể nào tách khỏi nhau. Ánh sáng ấy cũng cho thấy, cái hiện ra trước mắt là sự tách bạch, đơn điệu đến nhàm chán, còn cái bị khuất lấp mới đích thực ẩn chứa nguyên do của sự sống, làm động lực cho cuộc sống luôn ở thế vận động và chuyển hoá.
“Sáu mươi năm bò toài trên mặt đất”, người thơ bừng tỉnh vì “Vẫn không hiểu lẽ đời…”, chỉ đến khi Đấng Mê Tơi chỉ dẫn: phải nhắm mắt lại để nhìn thấy, phải bịt chặt tai để nghe cho tường, thì hoá ra
Những bí ẩn xanh rờn
Dạt dào tuôn chảy tự trời cao…
Quy luật nhân-quả ai cũng có thể thao thao giảng giải, nhưng mấy ai tỏ tường và thực hiện rốt ráo, cho nên bể khổ vẫn mênh mông cuộn sóng, cuộc sống vẫn đầy rẫy nghịch lý và bất trắc xuất phát từ lòng tham, từ thói tị hiềm. Và cứ thế, trong guồng quay phát triển nền văn minh vật chất, một mặt phục vụ cuộc sống, mặt khác tự con người phá vỡ tính thống nhất hoàn chỉnh của hành tinh ra từng mảnh, khiến nguồn sống của chính mình bị huỷ hoại và cạn kiệt.
Cái tồn tại ở trường ca Bản xônat hoang dã khác xa cái tồn tại ở trường ca Đá cháy. Không cần nữa tỏa sáng, mà
Cái nghiệt ngã của Đấng Mê Tơi
In lên khắp thế gian
Như một định mệnh? Bất chấp mọi ý muốn
Và cứ thế tồn tại
Như một quy luật vĩnh cửu
Và cứ thế bất biến
Như một điều tốt lành…
Và, từ đây, người thơ nhận ra điều không hề khiến người đời chán nản, rằng:
Cõi trần gian
Chẳng có cái gì tươi đẹp hơn Cái Chết
Sự thức nhận này của nhà thơ rất gần, chính xác là thấm nhuần giáo lý Nhà Phật về quan niệm sinh-tử, về sắc-không, về buông bỏ chấp ngã. Hành trình thơ của Trần Nhuận Minh tiệm cận tới bản ngã của Đấng Mê Tơi, là thế. Đã không phải là Thánh thì không một ai người trần mắt thịt có thể thấu triệt và bước được qua cánh cửa, nơi Đấng Sáng tạo toàn năng trị vì và điều khiển sự sống muôn loài, mà chỉ tiệm cận để thức nhận. Người thơ Trần Nhuận Minh đã đến rất gần cánh cửa đó khi cuộc hành trình thơ của ông “Đi ngang thế gian” (tên đặt cho chương cuối trường ca Bản xô nát hoang dã, nhắc lại câu thứ tư của tựa cho trường ca “Đá cháy”) và cánh cửa mở ra:
Kim Tự Tháp đứng im mà vẫn bay vạn dặm
Kẻ giỏi hạ cây đâu cần đến sức rìu…
rất thực mà vẫn không thực, rất ngẫu nhiên mà lại là tất yếu. Từ triết lý nhà thơ chuyển mình sang đạo lý
Tất cả đổi thay nhanh
dù vẫn sớm vẫn chiều
Tôi không đổi thay
Càng mới thì càng cũ
Đi ngang thế gian
mặt đầy hầm hố
Tôi cắp nách một kho vàng
Toàn là ánh trăng suông…
*
Dù Trần Nhuận Minh viết “Ta rong chơi thôi mà, có tư tưởng gì đâu…” và “Tôi cắp nách một kho vàng – Toàn là ánh trăng suông…”, thì đừng cho rằng nhà thơ cố tình khiêm tốn. Ông thực sự là người khiêm nhường, khiêm cung cả trong đời thường, cả trong thơ.
Điều cần khẳng định: Thơ Trần Nhuận Minh dần dần và dứt khoát đoạn tuyệt với lối kể lể, minh hoạ, để đến với sự bứt phá về cấu trúc và hình thức biểu đạt một cách phóng khoáng, tạo cho thơ ông sức lay động người đọc bằng sự tuôn trào cảm thức liền mạch, không câu nệ vào khuôn khổ của bất cứ một thể thơ nào, một khuynh hướng thơ nào. Thay đổi hình thức và cấu trúc thơ theo hướng hiện đại, nhưng thơ ông không cắt đứt tư duy thơ truyền thống mang tính minh triết mà các nhà thơ tiền bối của dân tộc đã xây nền móng vững chắc. Chữ trong thơ ông không mấy lạ, song nghĩa của chúng đa tầng, có tính ẩn dụ cao, cấp cho người đọc trường suy tưởng mới và rộng.
Bằng ngôn ngữ thơ, Trần Nhuận Minh đã vẽ nên hai bức tranh tổng thể, khái quát hai chặng đường của cuộc hành trình tiệm cận bản chất chân-thiện-mỹ: từ mô tả chi tiết đến chính xác, ở chặng đầu, chuyển sang biểu tả cái thần thái của toàn cảnh, ở giai đoạn sau. Đó là sự chuyển mình quyết liệt trong nghệ thuật thơ của Trần Nhuận Minh, theo đúng tinh thần: Sự chính xác đâu phải là sự thật! – Nghệ thuật là tự thân! Xuất phát từ tâm chân thực mà có được lòng hướng thiện và, do vậy nhà thơ vươn tới cái toàn mỹ.
Sau cuộc hành trình sáu mươi năm của gần tám mươi năm tuổi đời, thơ Trần Nhuận Minh đã đạt thành tựu đáng trân trọng. Thành tựu ấy dâng đời một Khuôn-Viên-Thơ-Đẹp. Thơ ông Toả sáng và Tồn tại theo đúng nghĩa của hai từ này!

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến là người có hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử và đời sống Hà Nội. Qua hai cuốn sách...
Bình luận