Huy Cận với tâm nguyện làm bục nhảy đưa sự sống lên cao kỳ 2

(Arttimes) - Sinh thời Huy Cận rất ung dung. Người có thực tài bao giờ cũng ung dung. Ông như quả chuông treo một chỗ mà tiếng ngân cứ vang xa, vang xa mãi.

Đọc tới đây, chúng ta hẳn đã nhận ra một sự đổi khác, một mầm sống mạnh mẽ, một bước sang trang sáng láng trong hồn Huy Cận. Bước chuyển ấy thể hiện thật hào sảng, mạnh mẽ, nồng nàn trong Kinh cầu tự, một bài thơ văn xuôi, một bút ký triết học và cũng có thể xem là tuyên ngôn nghệ thuật của Huy Cận sẵn sàng làm “cái bục nhảy cho sự sống lên cao”. Nhà thơ tuyên bố “Trong bóng tối mênh mông lòng ta đã hóa một tiếng gà, mà thức tỉnh mây trời, gọi dồn ánh sáng. Hỗn độn đã thua rồi”. Trong lúc từ ngục tù thực dân Pháp Tố Hữu giục giã:

Dậy mà đi. Dậy mà đi Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi

Thì giữa lòng Hà Nội, Huy Cận đáp lại:

“Chúng tôi, những hạt bụi nằm trong sự vô tri đã quá lâu rồi, chờ đợi đã lắm, xin gọi chúng tôi về với sự sống, reo vui, tưng bừng”.

Trong văn học công khai hồi ấy, có hai chữ tuyệt nhiên không được nhắc đến, nhưng tinh thần, ánh sáng thì thấp thoáng ẩn hiện đầy rạo rực trong Kinh cầu tự. Hai chữ đó là Cách Mạng. Chúng ta nhớ lại.

Năm 1940, Lửa thiêng ra đời

Năm 1942, Huy Cận tham gia Mặt trận Việt Minh ,

Năm 1943, Kinh cầu tự xuất bản.

Trong Nhật ký song đôi, Huy Cận tự hào là thi sĩ Thơ mới sớm nhất tham gia Cách mạng. Với Huy Cận tham gia cách mạng là giải thoát cho anh cái bi kịch xã hội “hướng lạc phương mờ” đồng thời cũng là sự giải thoát cho nghệ thuật. Đây, tiếng nói của người vừa thoát khỏi sự giam cầm của bóng tối: “Tả sự sống không cần mấy. Tạo thêm sự sống mới là tối cần thiết, mới là nghệ thuật cao đẳng. Văn minh không phải cố làm cho cuộc đời thêm phiền phức mà tạo thêm sức sống cho con người. Văn minh, ấy là kiến thiết lòng người theo một kiến trúc luân chuyển. Cho nên mỗi công trình sáng tạo đều mang dấu hiệu của một niềm chung vui, của tiếng gọi đàn”.  

Những suy nghĩ của Huy Cận trong Kinh cầu tự có rất nhiều điểm gần gũi với Văn chương và hành động của Hoài Thanh và Lê Tràng Kiều. Điều thú vị là, cả ba tác giả này rồi sẽ gặp nhau trên các ngả đường của Cách mạng và Kháng chiến. Huy Cận tham gia hoạt động bí mật trong Mặt trận Việt Minh và được phân công nhiệm vụ vận động trí thức và thanh niên ở Hà Nội. Tháng 8 năm 1945, ông được cử đi dự Đại hội quốc dân Tân Trào, được cử vào Ủy ban Dân tộc giải phóng. Sau cách mạng tháng Tám, Huy Cận là Đại biểu Quốc hội nhiều khóa, được tin cậy giao nhiều trọng trách trong Chính phủ và là vị Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam thứ ba sau Nguyễn Tuân và Đặng Thai Mai.

Huy Cận với tâm nguyện làm bục nhảy đưa sự sống lên cao kỳ 2 - 1 Huy Cận sinh thời mang cốt cách ung dung 

Ông cũng là một trong số rất ít văn nghệ sĩ được trao tặng những vinh dự đặc biệt nhất. Đọc Kinh cầu tự với những lời giục giã rạo rực và sôi nổi, chúng ta tưởng tượng ra một mùa bội thu mới của Huy Cận đang đến gần với những chùm trái ngọt trước tầm tay. Nhưng không, điều chúng ta mong đợi phải 15 năm sau mới tới. Điều đó nói lên cái quy luật khắt khe của lao động sáng tạo. Trong một cuộc phỏng vấn, Huy Cận rất vui tự nhận mình là người có năng suất cao so với các nhà thơ cùng thế hệ. Quả là ông đi nhiều, viết nhiều. Ngoài thơ ngắn ông còn viết truyện thơ Cô gái Mèo, trường ca Người Mèo ta, viết kịch thơ lịch sử: Họp mặt thiếu niên nhi đồng, thơ thiếu nhi, thậm chí ông viết cả ca dao phục vụ kháng chiến, khi cần. Trong các sáng tác sau Cách mạng, Huy Cận đã thực hiện tốt nhất quan niệm thơ của ông ngay từ khi mới cầm bút. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa Vũ trụ và Nhân sinh. Và dấu ấn Huy Cận rõ rệt và đặc sắc nhất trong nền thơ hiện đại của chúng ta chính là ở sự kết hợp đó. 

Thơ ơi chiếc võng ta treo Đầu theo vũ trụ, đầu theo loài người

Và ta nhớ, trước Cách mạng, Huy Cận có cả một tập thơ với cái tên Vũ trụ ca. Nghe cái tên ấy, lúc đầu tôi cứ tưởng Huy Cận chỉ dành riêng ca ngợi thiên nhiên, trời đất, và mượn trời đất, thiên nhiên làm cớ để đẩy cái tinh thần lãng mạn, thoát ly đi xa nữa. Nhưng, rất may là không phải vậy. Vũ trụ ca có nói đến sông, đến suối, đến đảo, đến lượng vui, đến bến lạ, đến vô định, nhưng sâu đậm nhất vẫn là chuyện đời, hay đúng hơn là sự giao hòa con người và trời đất. Có lúc Huy Cận thả hồn lên chót vót, cho tới khi lên tới đỉnh cao chót ấy thì hóa ra lại bắt gặp trần gian. Bắt gặp trần gian là bắt gặp những câu hỏi bức thiết của trần gian, những câu hỏi thổn thức, đeo bám, truy đuổi, buộc thi nhân phải lên tiếng. Đời hỏi gì ta trên đảo vắng? Đời hỏi gì ta trên biển nắng? Đời hỏi gì ta trong ánh ngày? Cứ thế, câu hỏi thu hẹp dần vào cõi người, vào kiếp người. Qua những Hàng thơ sau đây, chúng ta thấy Huy Cận đang mở lòng với cuộc sống với một tinh thần đối thoại rất cao. Và qua cuộc đối thoại ấy, ta nhận ra một cuộc lên đường sắp sửa. 

Ánh sáng thầm vang ta lắng nghe Âm binh rên khóc giữa trưa hè Quay tròn giọt lệ ba nghìn hướng

Đời hỏi gì ta sau bánh xe Đời hỏi gì ta trong gió mạnh?

Đời hỏi gì ta trên biển đây Mắt đời nhìn hỏi nhiều khi lạnh

Thế cục vang lừng hạt máu say                                       (Đời hỏi gì ta)

Đời hỏi gì ta,  bài thơ Huy Cận làm vào mùa hè năm 1941, sau này ta còn bắt gặp những câu hỏi ấy trong bài Các vị La Hán chùa Tây Phương: Một câu hỏi lớn. Không lời đáp/ Cho đến bây giờ mặt vẫn chau/ Hóa ra có bao nhiêu câu hỏi của kiếp người không thể trả lời xong trong một lúc. Nhưng theo dõi hành trình thơ Huy Cận, chúng ta thấy: từ Chiều tế cúi đầu trong Lửa thiêng 1940 đến Thế cục vang lừng hạt máu say trong Vũ trụ ca, 1941, Huy Cận đã chuyển. Bước chuyển ấy thể hiện thăng hoa và tưng bừng trong Kinh Cầu tự như đã nói ở trên. Trở lại câu chuyện thơ Huy Cận sau Cách mạng. Vẫn theo tinh thần, giao hòa vũ trụ và con người, thì trời mỗi ngày lại sáng là để soi rõ mặt người chứ không phải soi sáng thêm các vì tinh tú.

Sẵn một cách nhìn, cách cảm ấy, đối với Huy Cận, chuyện một anh Tài Lạc bị giặc bắn, một anh Điều mù thổi sáo Tiến quân ca, một anh Phòng đấu tranh, Năm cô gái trẻ hoạt động bí mật bị địch thủ tiêu bằng cách đút vào bao tải, đèo thêm đá quẳng xuống biển là cả một vũ trụ đau đớn bị thương, sát kề, khiến chúng ta không thể quay mặt. Đấy mới thực là vũ trụ không bao giờ cũ. Và mọi sự quên lãng phải được xem là sự tiếp tay cho tội ác. Vẫn trên hành trình thơ Huy Cận, có một nỗi băn khoăn đã được nêu ra trong tinh thần học thuật, nay thu hẹp lại trong trường hợp cụ thể, đi với Cách mạng và kháng chiến, anh có phải hy sinh gì không? Có, anh có hy sinh. Hơn nữa, anh tự nguyện hy sinh. Hy sinh cái sầu não, cái quạnh hưu, cái vị đời thoáng vị cơm ôi, hy sinh cả cái bệnh không bị đánh mà tự khóc, để mà được, và được rất nhiều. Trước hết là Tổ quốc và nhân dân. Thế còn nghệ thuật? Ô hay! Thế cái quan niệm Vũ trụ và Nhân sinh giao hòa ấy, có từ thời anh mới bắt đầu cầm bút có ai bắt anh phải hy sinh? Mà cần gì phải hy sinh? Anh không hy sinh mà thay đổi và phát triển, không thay đổi và phát triển là cằn cỗi. Mà cằn cỗi là một nỗi nhục, thậm chí là cái nhục tột cùng như anh đã lên án trong Kinh Cầu tự. 

Thu tới ngoài kia

Nghe nhân thơm trong trái nặng

Nghe nhựa ấm trong cảnh thưa

Nghe đu đẩy tiếng gió ru lúa chín

Xôn xao cuống lá rụng thay mùa

Vẫn là Huy Cận, nhưng “xôn xao cuống lá rụng thay mùa” thì đã có sự thay đổi nhiều lắm, thay đổi theo cái hướng “nhựa mạnh tuôn trao tưởng dính chân” trong Lửa thiêng hồi nào. Đấy là trong đời sống còn trong cõi riêng tư, thơ tình, ta cũng luôn thấy có sự thay đổi theo biến chứng của đời sống. Vẫn là câu chuyện anh ngồi canh cho em ngủ. Ngày xưa thì: 

Cây dài bóng xế ngẩn ngơ Hồn anh đã chín mấy mùa thương đau Tay anh em hãy tựa đầu Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi

Ngày nay thì:

Biển lặng em nằm trong gió êm Anh là bóng thức của hồn em Ngoài kia sao cũng từng đợi sáng Từng cặp nhẫn vàng trong trái đêm

Vẫn là tình yêu, nhưng tình yêu xưa kia và tình yêu hôm nay khác nhau biết chừng nào. 

Nỗi buồn lớn nhất của thi nhân xưa nay là lo hậu thế không hiểu mình. Vĩ đại như Nguyễn Du cũng còn viết:

Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như

Huy Cận không chỉ được hiểu mà được tôn vinh ngay khi ông còn sống. Mở đầu với Lửa thiêng, kết thúc với Cha ông nghìn thuở, sự nghiệp của ông in dấu trên một thế kỷ đầy giông bão. Đời thơ của ông cũng giống như người thợ đúc chuông ở phường Ngũ Xá, nơi mà ông đã đến thăm và làm bài thơ Đúc chuông vào năm 1998. Hậu thế chắc sẽ còn nghe mãi những tiếng ngân, những lời gửi gắm, sâu xa của Huy Cận.

Chuông an ủi những lòng tuyệt vọng Chuông gióng cao mở trời lồng lộng Tiếng chuông vang hội tụ trăng sao Nhắc con người nhớ trước nhớ sau

Sinh thời Huy Cận rất ung dung. Người có thực tài bao giờ cũng ung dung. Ông như quả chuông treo một chỗ mà tiếng ngân cứ vang xa, vang xa mãi. 

Hữu Thỉnh  None

Tin liên quan

Tin mới nhất

Phát huy giá trị đa văn hóa trong nếp sống  văn hóa, văn minh đô thị

Phát huy giá trị đa văn hóa trong nếp sống văn hóa, văn minh đô thị

Hội thảo khoa học diễn ra ngày 25/07/2024 tại TP.HCM do Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Đông Nam Á (Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) phối hợp với Hội hữu nghị Việt Nam – Asean TP.HCM tổ chức mang chủ đề "Giải pháp phát huy giá trị đa văn hóa và tiềm năng của các gia đình có yếu tố nước ngoài tại TP.HCM góp phần xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh đô thị” đã đặt ra nhi

Toàn văn Lời điếu tại Lễ truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Toàn văn Lời điếu tại Lễ truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Ngày 26/7, Lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được cử hành trọng thể theo nghi thức Quốc tang tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội), đồng thời Lễ truy điệu cũng được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh) và quê nhà Tổng Bí thư tại xã Đông Hội, huyện Đông Anh (Hà Nội). Ủy vi