Một mình nhấp một chiều thu
Câu thơ trên: “Một mình nhấp một chiều thu” trích từ bài “Lời gió” (trong tập Vùng phủ sóng, 2010), không ghi chú thời gian, nhưng chắc chắn được viết khi tác giả đã luống tuổi, đủ nếm trải, đủ tĩnh tại, đủ vắng lặng, đủ cô đơn… để làm chủ tâm hồn mình. Không gian buổi chiều như cũng đủ buồn, thời gian mùa thu như cũng đủ lắng… như thể ngoài kia trái đang tự chín, hoa đang tự vàng, sông đã gần cửa biển… (báo hiệu đã hết nôn nóng mùa hè, đã chạm xao xác mùa thu, nhưng còn chưa đến hiu hắt mùa đông). Một câu thơ giúp ta hình dung về một con người và một thoáng trần gian đã trôi qua phận người. Tác giả câu thơ ấy là nhà thơ Đoàn Văn Thanh.
Thơ Đoàn Văn Thanh chính là con người anh: trữ tình lặng lẽ, triết lý thâm trầm, tinh tế trong sự giản dị, từng trải. Bên cạnh những thể thơ khác, phần nhiều anh chọn “lục bát”, một thể loại đầy thách thức bút mực để biểu hiện tâm trạng của mình. Và, chảy mãi thì nên dòng, đi mãi thì thành đường!
Thơ ca phương Đông từ cổ chí kim, từ ca dao dân ca đến văn học thành văn phần nhiều khởi nguồn từ cảm hứng trữ tình. Nhu cầu biểu hiện tình cảm của người viết như một ứng xử tự nhiên của tâm hồn trước cuộc sống, như một cách thức để con người thể hiện nội tâm của mình, để từ “cõi mình” đến cõi người.
Tác giả Đoàn Văn Thanh
Trong thơ Đoàn Văn Thanh trữ tình như một mạch ngầm trong yên lặng của từng thớ đất nhưng miên man, ngọt ngào, có sức lan tỏa của tâm hồn anh. Cảm thức trữ tình trong thơ Đoàn Văn Thanh là cái tôi cô đơn trong yên lặng, sau những thăng trầm của cuộc đời. Một buổi chiều dọc bờ sông Đáy như mọi buổi chiều vô tư lự khác, nhưng câu thơ rất gợi cảm của Đoàn Văn Thanh như đang lan tỏa đến những “vùng phủ sóng” mà anh hướng đến: Hiu hiu tre lay động/ Hoa tím hoàng hôn trôi/ Cánh buồm về phía núi/ Rớt lại một mình tôi (Chiều sông Đáy).
Mọi vật như đang chuyển động (tre: lay động; hoa tím: trôi; cánh buồm: về phía núi). Chỉ con người là bất động trong cô đơn (rớt lại một mình). Cảm thức cô đơn thoạt tiên tưởng như tách biệt với cảnh vật. Thực tình cảnh vật đã xui người, như thể con người đang bị tách khỏi sự sống, đang bị “rớt lại” của một buổi chiều, đang đứng yên trước sự náo nhiệt một ngày sắp hết của đất trời: Ban ngày đời cứ chảy tuôn/ Đêm về kéo kén nằm buồn giăng tơ/ Ban ngày tích cóp vu vơ/ Đêm về bện lại bâng quơ buộc mình (Nửa đêm), Chiều nghiêng lẻ một mình anh/ Bao nhiêu ồn ã cũng thành cô đơn (Chiều nghiêng).
Lẻ, một mình, cô đơn đã làm tăng đến giới hạn của cô đơn. Đã đến tuổi ngày thường rất ngắn, đêm thường rất dài, ngày thường ồn ã đêm thường bị vây bủa thinh lặng. Người thường đã vậy, thi nhân mấy ai thoát được cô đơn, mấy ai nhẹ nhõm, thanh thản, toại nguyện. Chỉ một cơn mưa đêm thôi cũng “vơi đầy” muôn nỗi: Mưa rừng, mưa biển/ Mưa quây/ Mưa quê, mưa phố/ Vơi đầy nỗi mưa/…chạnh lòng già/ Nghe xương cốt chuyển/ Biết là mưa đêm (Giấc mưa).
Đoàn Văn Thanh quê gốc làng Cát Nguyên (huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam), một ngôi làng nghèo nhưng có truyền thống học hành khoa bảng: Xa xưa đã gọi Cát Nguyên/ Đất lành thóc gạo người hiền áo cơm/ Cử nhân, tiến sỹ danh thơm/ Người quê tôi vịn rạ rơm nên người (Làng Cát Nguyên). Làng xưa ngăn ngắt ao bèo/ Người đi hun hút tre pheo gió lùa/ Nổi chìm gốc rạ đồng chua/ Cuốc kêu khắc khoải, chuông chùa lạnh thênh (Làng xưa).
Ngôi làng này trở đi, trở lại trong thơ anh như một tín hiệu thẫm mỹ, như một sợi chỉ xanh trong thẳm sâu tâm hồn anh, như một cứu rỗi tinh thần, nơi tìm về mỗi khi cô đơn, nơi lưu giữ ký ức khôn nguôi một thời gian nan: Một thời no đói vần xoay/ Hạt cơm cõng mảnh khoai gầy thương nhau (Sắc làng); nơi tuổi ấu thơ thương nhớ trong vòng tay mẹ: Mẹ như gà mẹ góc sân/ Nuôi con cung cúc hạt gần, hạt xa (Mẹ), Thân cò lặn lội bờ sông/ Tép tôm thì ít, bão dông thì nhiều (Mẹ đi như giọt sương sa); nơi tuổi trẻ rạo rực tình đầu: Người đi quên nửa câu thề/ Hay còn mắc mớ bùa mê nơi nào/ Chẳng còn chum nước, cầu ao/ Thì còn ánh mắt bên rào ngày xưa (Lối về); nơi tuổi lớn đi về sau những xa cách: Bao năm góc biển chân trời/ Thương đồng chìm nổi một thời áo cơm (Gặp đồng), Em giờ bến nào neo đậu/ Ta giờ tóc trắng chân cầu (Những cây cầu), Tình ta đan thành núi nhớ/ Tình ta dệt thành sông thương/ Núi che đời anh bóng mát/ Sông trong soi mọi nẻo đường (Tình em Kim Bảng); nơi chứng kiến li biệt đớn đau: Em đi khắc khoải lời yêu/ Để anh dang dở với chiều dở dang (Trước mộ)…
Rất nhiều những ký tự mang ý nghĩa “định vị” trong liên tưởng của người đọc: cầu ao, chum nước, thóc gạo, rạ rơm, tre pheo, ao bèo, tép tôm, hạt cơm, mảnh khoai…Và rất nhiều những động từ đi liền với sắc thái “hô ứng”: vịn (rạ rơm), hun hút, lùa (gió), khắc khoải, vần xoay, cõng, mắc mớ, chìm nổi, dở dang, dang dở (Phận người)… để biểu hiện tâm trạng của chủ thể trữ tình về làng quê, về mẹ, về em, về thế thái nhân tình.
Một chủ thể trữ tình tự nhận “đa đoan” trong số phận (Đa đoan là tại số trời), tự thú đa tình trong ý thức (Đa tình cũng chỉ sắt son một người) được hiện dần qua những câu thơ giàu sức gợi cảm, với nhịp điệu êm dịu như men gạo quê, diễn đạt tinh tế điều riêng tư mà chạm đến tâm can mọi người.
Đoàn Văn Thanh gắn bó với làng quê không chỉ vì đó là nơi sinh ra, lớn lên bên cạnh những người thân thiết, mà còn là nơi anh kiếm sống, cày bừa, gieo cấy “mồ hôi thánh thót”… như một nông dân thực thụ. Từ giã chiến trường với những vết thương do bom đạn: Những năm bom đạn chiến trường/ Xả thân nối những con đường quân đi (Hạt cát), từ giã những năm tháng chiến đấu gian lao với những câu thơ ấp ủ một thuở trong tâm hồn: Bao năm góc biển chân trời…/Tôi về vui với rạ rơm/ Củ khoai ngày ấy còn thơm đến giờ (Gặp đồng), từ giã những cánh rừng: Xương cốt bạn ta/Lá mục (Nhận diện) trở lại quê hương những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh, Đoàn Văn Thanh trở thành một “lão nông tri điền”, rồi một chủ nhiệm hợp tác xã cấp cao những năm bao cấp, đứng mũi chịu sào, lo cái ăn, cái mặc cho hàng ngàn con người.
Nhưng tận sâu trong tâm hồn Đoàn Văn Thanh thơ ca vốn là một thứ men ủ kín lâu ngày, có thể tạm thời xếp sang một bên, nhưng không thể dễ dàng dứt bỏ: Văn chương-bùa ngải gọi mời…/ Chữ là khí thở chẳng rời được đâu (Tâm chữ). Khi đã bớt vợi khó khăn, cái “tạm thời xếp sang một bên” kia có dịp thức dậy.
Đúng thế, với Đoàn Văn Thanh Thời gian mài sợi tóc/ Cuộc sống dũa tâm hồn/ Sợi tóc thành mây trắng/ Tâm hồn thành ánh trăng (Thời gian). Với Đoàn Văn Thanh quê nhà thường hiện lên trong sự thương cảm chia ngọt sẻ bùi: Bao năm góc biển chân trời/ Thương đồng chìm nổi một thời áo cơm/ Ta về vui với rạ rơm/ Củ khoai ngày ấy còn thơm đến giờ (Gặp đồng).
Với Đoàn Văn Thanh, trong tiếng chim gù kia cũng nặng trĩu tâm tư: Gáy thưa nhớ cây/ Gáy mau nhớ tổ/ Nấc lên khản giọng-nhớ bạn mênh mông (Chim cu gáy). Trước một vật vô tri là những gốc cây bên bãi đá, Đoàn Văn Thanh cũng có cái nhìn đượm màu nhân ái: Tình cây và đá là đây/ Đá khum tay đỡ cho cây xanh chồi/ Thương nhau đá đứng đá ngồi/ Cũng bồng bế, cũng bồi hồi nỗi yêu (Đá vọng)… Chất trữ tình trong thơ anh là sự lên men của củ khoai, hạt lúa, bình dị mà tha thiết, dịu nhẹ như ánh trăng (Tâm hồn thành ánh trăng), như lời nói thầm của cây lá bên bến nước, bờ ao: Ta về ngồi đếm sao trời/ Bỗng nghe cá đớp mảnh nơi đáy hồ/ Người đi neo đậu bến bờ/ Bỏ quên bậc đá lạnh chờ ao quê (Ta về).
Có thể nhận thấy chủ thể trữ tình đang trong tình cảnh “người về, người đi”, đang trong tâm trạng hiu quạnh, buồn nhớ, trong “nhịp thở” yên lặng của nông thôn, của làng bãi, của sao trời, đáy hồ, bậc đá lạnh, ao quê…Nhưng hình như nhiều khi tác giả đang cố chế ngự cô đơn kia: Giờ này ở cuối trời xa/ Hình như cũng có người ta nhớ mình (Nhớ).
Cho dù chỉ là hình như thôi, người ta là ai thì cũng chưa thật cụ thể nhưng nhớ nhung là có thật: Làng xưa ngăn ngắt ao bèo/ Người đi hun hút tre pheo gió lùa (Làng xưa) Trong những câu thơ trên chỉ có một tiếng cá đớp động là “vô tâm”, còn lại là tĩnh lặng “hữu cảm” trong cảm thức của một ngòi bút giàu yêu thương, trắc ẩn, trân quý tình cảm giữa con người với con người: Một đời trầu để nhớ cau/ Đời người sao chẳng thương nhau…một đời (Một đời).
Tình cảm ấy như hiện lên trong vô thức: Vẫn hình bóng mẹ không mờ/ Nhang hương con thắp bàn thờ rưng rưng (Chiêm bao), như được thanh lọc qua ngột ngạt trần gian: Đội bùn, lọc nước/ Sen nở một mùa hương tinh khiết (Với bùn), như hồi sinh sau cơn mưa núi: Mưa xuân phủ độ lòng mình/ Dắt tay xuống núi đã tình…xôn xao (Lên Yên Tử), như được chuyển hóa từ hương thơm: Tóc em thơm ngọn gió/ Neo cánh buồm hồn ta (Chiều Hồ Tây), Một lần trao gửi đầy vơi/ Một lần dạo để một đời còn thơm (Nhớ hương hoa sữa)…Có thể nhận thấy những cung bậc tình cảm gợi lên qua giọng điệu, câu chữ khi gần gụi, nồng ấm, khi tha thiết, buồn thương… làm nên chất trữ tình rất riêng, phảng phất phong vị ca dao, dân ca của thơ Đoàn Văn Thanh.
Ngòi bút của Đoàn Văn Thanh cũng đậm chất triết luận, một phương thức nhằm tăng cường tính tư tưởng của thơ. Những “triết lý” từ cuộc sống, từ những trải nghiệm, quan sát và suy ngẫm…đúc kết thành những ý niệm nhân sinh, chuyển tải bằng ngôn từ, tác động vào tâm thức người đọc. Một lần đển Đọi Tam, làng quê nổi tiếng với lâu đời với nghệ thuật làm trống bằng da trâu, anh xót xa nhận ra nghịch lý của số phận:
Thân trâu mưa nắng kéo cày
Ăn giả làm thật tối ngày chưa tha
Một mai sức kiệt lực già
Xả thân lột lại mảnh da dâng đời
Sống cúi đầu chẳng nhìn trời
Chết lên mặt trống muôn nơi nghe mình
(Nói ở Đọi Tam)
Câu thành ngữ: “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng” được liên tưởng tới như bài học của kiếp nhân sinh giữa cay đắng và vinh quang, giữa cái chết và sự sống, giữa khuất lấp, bé nhỏ, cam chịu và dâng hiến… Một bài thơ nhỏ mà “gói” được từng ấy “ý niệm” rất đáng để ghi nhận. Lựa chọn thể “lục bát” với nhịp điệu dân giã như để “tự vấn” lương tâm cũng là một lựa chọn hợp lý. Thể thức nói (Nói ở Đọi Tam) hình như cũng làm tăng thêm phần chân thực, khẩn thiết… Bài thơ vì thế tạo nên sự da diết của triết lý từ những gì gắn với ruộng đồng, thôn dã, ai cũng có thể cảm nhận được.
Cũng với cách lập ý tương tự, bài thơ Lục bình lại đưa người đọc đến một thân phận khác: phận bèo. Giữa cái nổi nênh, phù du, mong manh… là màu “biêng biếc tím” của hoa lục bình như một sự đối lập về thường biến và thường hằng, tàn lụi và bất tử, xấu và đẹp… Và giữa sự đối lập ấy là tình thương yêu của con người: Phận mình ngọn sóng mong manh/ Thương nhau níu kéo mà thành bè xuôi/ Chẳng lên bờ thắm nhà người/ Cứ biêng biếc tím lặng cười cùng sông (Lục bình).
Một kiếp lục bình làm ta liên tưởng đến một kiếp nhân sinh đang vượt lên số phận, kiêu hãnh hiện diện bằng cái riêng có, không hề bận tâm đến sự hèn mọn của mình.
Còn đây là hạt cát với số phận bé mọn, nhỏ nhoi, dường như chẳng nên công cán gì, có thể tan biến đi bất cứ lúc nào trước gió, trước sóng. Thế nhưng cát cũng có thể nên lũy, nên thành, có thể vùi lấp, ôm trùm… Bằng chứng là nhiều Kim Tự Tháp của xứ Ai Cập đã bị vùi sâu trong cát hàng ngàn năm. Đoàn Văn Thanh nhận thấy cái lớn lao trong cái nhỏ nhoi của từng hạt cát: Người ta là bạc là vàng/ Còn tôi hạt cát đầu làng cuối sông/… Nhỏ nhoi đâu nói nên lời/ Kết liền thành giải đất trời quê hương/…Bình sinh chẳng dám mơ gì/ Hóa trong lửa đỏ cát thì trong veo (Hạt cát).
Ảnh minh họa
Đoàn Văn Thanh luôn có cách nhìn sự vật trong sự đối lập từ đó rút ra triết lý. Sen và bùn: Đội bùn, lọc nước/ Sen nở một mùa hương tinh khiết (Với bùn), nỗi đau của loài trai nơi đáy biển và cái đẹp của viên ngọc: Quặn lòng/ Nuốt hạt cát vào trong/ Vo tròn đớn đau/ Kết ngọc (Đường đến ánh sáng), vòng luân chuyển bình thản mà nghiệt ngã của trần gian: Hàng xóm ông nằm xuông/ Nhà bên cháu chào đời/ Vừa hoa tang viếng bạn/ Đã cẩm tay thiếp mời (Mỗi ngày), khuôn khổ (trong lồng) thăng hoa và tự do (ngoài lồng) bất lực: Này chim cu gáy/ Đừng buồn/ Ta ở ngoài lồng/ Mà không gáy được (Chim cu gáy), một sự va chạm cụ thể: Càng no, càng chạm, càng đốp chát/ Đớn đau chẳng thể chia xa (Dao và thớt), một cảm giác mơ hồ: Mong manh một chiếc lá rơi/ Hình như lại một mảnh đời chia xa (Lời gió), lời “tự thán” về phận mình: Hồn về với mẹ cố hương/ Lênh đênh phận chữ vô thường kiếp sinh (Thi nhân mưa đón đi rồi), “biện chứng” của sự mất mát và bất tử: Dưới kia xác những hầm hào/ Bao nhiêu xương trắng, máu đào nằm đây/ Nhẹ thôi! Cho cỏ mọc dày/ Cho cây xanh lại, cho đầy tiếng chim (Viết ở dồi A1), những phát hiện trong đối nghịch: Thiên nhiên/ Trẻ mãi trong sự già (Hoang dã 1), Nỗi buồn/ Là sự lớn khôn/ Của tình yêu (Hoang dã 2), một tự vấn lương tâm: Muối biết mặn, gừng biết cay/ Sao người cứ phải quắt quay với người…/Cớ gì trong héo, ngoài tươi/ Tiếng khóc thì thẳng, tiếng cười lại nghiêng (Thơ mùa đông), một tâm thế bất định: Ta đem dại đổ vào khờ/ Chợ đời lấm láp bên bờ sông khôn/ Sông khôn chết nửa phần hồn/ Nửa phần còn lại bồn chồn thực hư (Thực hư)…
Tất cả những suy tưởng trên đây của Đoàn Văn Thanh không phải là những “tư biện” mà đều xuất phát từ cuộc sống, rút ra từ những chiêm nghiệm của một người gắn bó với thiên nhiên, ruộng đồng, đầm bãi, sông nước, lũy tre làng… Phải sống chân thật, sống kỹ lưỡng, sống với một tâm thế hòa đồng mới phát hiện được những triết lý nhân sinh của sự sống, về sự sống như vậy.
*
Dù đến với thơ hơi muộn, nhưng Đoàn Văn Thanh đã kịp in 7 tập thơ: Tiếng lòng, 2006, Cõi mình, 2008, Vùng phủ sóng, 2010, Những đám mây đáy hồ, 2013, Khúc ru xanh, 2016, Ở giữa trời và đất, 2017, Mạch nguồn, 2020. Tất cả làm nên nét riêng, đặc sắc của Đoàn Văn Thanh, một cây bút luôn gắn bó với những gì thân thuộc nhất của mình. Văn chương muôn đời vẫn vậy, nếu sống hết mình sẽ có những trang viết của riêng mình. Và “tiếng nói riêng” ấy là điều cốt tử của văn chương vậy!
Những đóng góp của Đoàn Văn Thanh đã được công chúng ghi nhận. Anh từng đoạt 11 giải thưởng về văn học: 3 giải của UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT (1 khuyến khích, 2 nhì), 1 giải nhất Cuộc thi viết về nông thôn do Hội Nhà văn VN và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức, 3 giải VHNT Nguyễn Khuyến của UBND tỉnh Hà Nam (1 nhì, 2 nhất), 3 giải của Hội VHNT tỉnh Hà Nam (1 nhất, 1 nhì, 1 ba), 1 giải Trăng vàng của UBTW mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với TƯ Hội Phật giáo Việt Nam tổ chức.
Nhà thơ Đoàn Văn Thanh là người sống nội tâm, ít nói, chỉ nói những gì cần thiết. Nhưng anh trọng tình nghĩa. Với tình nghĩa thì xa mấy anh cũng đến được. Những năm gần đây chúng tôi (Đoàn Văn Thanh, Nguyễn Hồng Công và tôi) thường “cà phê sáng” cùng nhau mỗi khi có dịp. Anh ngồi đó Phất phơ tóc chạm sương trời (Tự thú), tại quán cà phê quen thuộc, chỗ ngồi quen thuộc, với một cốc đen nâu quen thuộc, và quen thuộc nhìn ra mặt hồ xanh sáng ngoài kia. Những lúc như vậy có thể anh đang nhớ ruộng đồng cho dù anh đã sống tại Hà Nội cùng con cháu nhiều năm. Xa quê chín nhớ mười thương (Quê và phố). Đoàn Văn Thanh là vậy./.

Ngày ấy, tôi và anh Ngô Xuân Thông từ hai binh trạm xa xôi ác liệt nhất, mãi tận bên Lào về học, được giao cho thầy Lưu...
Bình luận