Tám loài rắn gần 300 tuổi trong thơ Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn (1726 - 1784), tên thật Lê Danh Phương, làm quan thời Lê Trung Hưng. Ông sinh tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hà, nay là thôn Đồng Phú, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Giai thoại về Lê Quý Đôn kể lại lúc nhỏ vốn thông minh nhưng mải chơi lười học, nghịch ngợm. Cha ông (Cụ Lê Trọng Thứ đỗ tiến sĩ, giữ chức Hình bộ Thượng thư) gọi con ra quở mắng và phạt quỳ đánh đòn. Đúng lúc có bạn là Tiến sĩ Vũ Công Trấn đến thăm nhà, cha ông phân trần với bạn rằng rất đau lòng vì đứa con trai rắn đầu biếng học. Tiến sĩ Vũ Công Trấn đã can ngăn và ra điều kiện phải ứng khẩu một bài thơ tạ tội. Cậu bé xin vâng theo. Tiến sĩ Vũ Công Trấn nói: Phụ thân cậu đã bảo cậu "rắn đầu", ta ra đề “Rắn đầu biếng học” cho cậu? Và Lê Quý Đôn đã ứng tác bài thơ này ngay tại chỗ.
Trước hết đây là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú, bởi vậy dù là ứng tác nhưng tài năng của nhà thơ vẫn đứng vững ở việc thi triển luật. Gieo vần “a” ở câu 1 (Câu khai đề) và tuân thủ đúng nguyên tắc để vần này xuất hiện trong các câu 2,4,6,8. Cấu tạo thi phẩm theo: đề, thực, luận, kết, cũng được phân định tường minh, có mối liên hệ chặt chẽ. Hai câu đầu nêu vấn đề tự nhận về sự biếng học, hai câu thực là nhận thức thực tại, sự biếng học làm đau lòng cha mẹ. Cặp câu luận chia ra 2 ý: tự luận về mình “tuồng nói dối” và ý cam chịu hình phạt rất đúng của cha. Hai câu kết là một khí phách: sẽ cố công học tập noi theo dòng dõi của gia tiên và xứng danh hai bậc tổ sư của Nho học. Bởi từ "Trâu" ở đây chỉ loài rắn hổ trâu, ngoài ra còn dùng để ám chỉ ấp Trâu, thôn Xương Bình, nước Lỗ, quê nhà của Khổng Tử.
Tranh vẽ Lê Quý Đôn. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử quốc gia
Về hệ thống thi ảnh, thi ngôn, do phải ứng tác theo phạm vi định sẵn là nói về loài rắn nên khó có thể dùng hình ảnh và ngôn từ bay bổng. Nhưng chính điều ấy lại tạo nên sự thú vị nhất của bài thơ này, bởi trong cả tám câu, tác giả đều tinh tế cho xuất hiện một loài rắn. Tám loài rắn được nhắc tên ấy gắn với đúng vị trí câu thơ, tinh thần ý thơ mà tác giả định thể hiện. Một độc đáo nữa là tác giả chỉ sử dụng có một từ "rắn" còn lại không nói đến chữ rắn nhưng lại nói đến rắn bằng cách gọi tên chúng bao gồm: rắn liu điu, rắn đầu, rắn hổ lửa, rắn mai gầm, rắn ráo, rắn thằn lằn, rắn hổ trâu, và rắn hổ mang.
Liu điu là loài rắn nước nhỏ hay tha thẩn trên cạn, xuống nước giống hệt trẻ con. Từ “rắn đầu”, được dùng với dụng ý chuyển đổi nghĩa từ danh từ trỏ một loài rắn sang tính từ chỉ sự cứng đầu cứng cổ. Câu thơ “Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ” là sự vận dụng thông thái của cặp từ “đèn lửa”; từ “hổ” cũng chuyển nghĩa thành tính từ “xấu hổ”. Tương tự, loại rắn Mai gầm ( rắn Cạp nong -Danh từ), thì từ “mai” có nghĩa chỉ thời gian còn từ gầm trong từ ghép được chuyển thành động từ chỉ sự tức giận quát mắng của cha. Rắn ráo được dùng bằng “Ráo mép” là một sáng tạo tài tình giúp ta hình dung được hình ảnh cậu trẻ con láu lỉnh hay cãi chối tội. Rắn roi (còn gọi là rắn lằn lưng) , hổ trâu, hổ mang… cũng được sử dụng theo những phương thức như vậy kết hợp với điển tích, ẩn dụ tạo ra chiều sâu tứ thơ. Ở độ tuổi niên thiếu mà biết và hiểu được đặc tính của nhiều loài rắn đến vậy, đặc biệt vận dụng tên gọi, hay đặc tính của nó mà vận dụng mau lẹ tinh tế cho việc ứng tác một bài thơ giữa bối cảnh áp lực như đã nói thì quả là ít có trên đời.
Mặc dầu vậy, riêng câu thơ “Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học”, từ “Trâu Lỗ” được dùng đã dẫn tới những lời bàn trái ngược. Có người cho rằng bài thơ này rất có thể bị tam sao thất bản nên câu thơ mang ý trái đạo, nghĩa là làm sao tác giả có thể ví mình như vị tổ sư (Khổng Tử) cúi đầu trước cha mình mà hứa “xin siêng học” được? Có lẽ những người mang quan điểm này đã không đặt tinh thần chung của bài thơ là viết về chủ đề “rắn” trong bối cảnh tác giả đang bị áp lực làm thơ và đặc biệt là hình ảnh thơ đa nghĩa nên cần chú ý tới ý chủ đạo mà tác giả muốn nói, Về vấn đề này, nhà thơ Chử Văn Long bình luận: “Nên đọc "Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học" tôi hiểu là cậu bé Lê Quý Đôn thông minh nhưng nghịch ngộ, có tài, sau những đòn roi rèn cặp, dạy dỗ của cha mẹ đã ngộ được ra rằng: Giờ con đã nhận ra đạo học sáng như gương treo ở đất "Trâu Lỗ" của cụ Khổng, từ nay con sẽ chăm chỉ học hành”.
Ở Trung Quốc cũng có câu chuyện tương tự xuất hiện một lần trong Hồi 79 bộ Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung; đó là chuyện Tào Phi bắt em trai Tào Thực khi phạm tội, ứng khẩu làm thơ đề tài tình anh em, nhưng không được dùng chữ anh em, nếu không sẽ chém đầu. Tào Thực đã đọc bài ứng tác: “Nấu đậu đốt cành đậu / Đậu ở trong nồi khóc / Vốn sinh cùng một gốc / Sao nỡ đốt thiêu nhau”. Bài thơ đã làm Tào Phi xúc động và tha tội chết cho em. Tuy nhiên điều khác biệt khẳng định thiên tài của Lê Quý Đôn ở chỗ, ông làm bài thơ “Rắn đầu biếng học” khi mới đang là đứa trẻ đang đi học, còn Tào Thực lúc ấy đã là nhà thơ và có tước vị Lâm Chi hầu.
Bài thơ “Rắn đầu biếng học” đã được truyền tụng gần 300 năm nay, đủ thấy giá trị của nó trong đời sống người Việt rất lớn. Dù có những dị bản nhưng chỉ thay đổi lệch một vài chữ nên tinh thần bài thơ vẫn trọn vẹn.
Đương nhiên, Lê Quý Đôn không chỉ nổi tiếng bởi bài thơ này, Theo GS. Dương Quảng Hàm, Lê Quý Đôn là một nhà bác học lớn ở đời Lê mạt: ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tuy tác phẩm đã thất lạc ít nhiều, nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một kho tài liệu để ta khảo cứu về lịch sử, địa dư và văn hóa của nước Việt. Để ca ngợi học vấn uyên bác đó của Ông, trong nhân dân lưu truyền câu “ Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn"; ý nói: người đời nếu cái gì không biết thì đến cứ hỏi Bảng Đôn là khắc biết. Xét riêng về thi phẩm này, đã gần ba thế kỷ những con rắn vẫn sống trong thơ Lê Quý Đôn không chỉ như một giai thoại mà còn làm sáng thêm tài năng thi ca và danh đức của một nhà văn hóa lớn.
Rắn đầu biếng học Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà! Rắn đầu biếng học lẽ không tha Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ, Nay thét, mai gầm rát cổ cha. Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo, Lằn lưng chẳng khỏi vệt năm ba Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học, Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia! (Theo GS.Dương Quảng Hàm tại“Việt Nam văn học sử yếu” - Trungtâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1986) |
Đọc tập thơ "Đi về phía mặt trời" của Lê Cảnh Nhạc, NXB Hội Nhà văn, 2024
Bình luận