Nguyễn Đình San với chùm bài hát đặc sắc về thương binh liệt sĩ
Nguyễn Đình San là nhạc sĩ không xa lạ với công chúng qua những bài hát về tình yêu quê hương đất nước, tình yêu lứa đôi. Các ca sĩ và các bạn trẻ hẳn là rất yêu thích những bài như “Chiều nắng”, “Trên dòng sông Lai Hạ”, “Có anh ở đảo”, “Khúc quân hành mùa xuân”, “Tuy Hòa một khúc thu”, “Chiều Nhật Lệ”... Ngoài ra, ông còn viết nhiều về đề tài thương binh, liệt sĩ và có chùm bốn bài hát đặc sắc. Bốn bài với ngôn ngữ âm nhạc, giai điệu độc đáo, giàu sức biểu cảm, không bài nào giống bài nào mặc dù cùng nhất quán một phong cách âm nhạc: dạt dào âm hưởng dân gian, trữ tình, sâu lắng, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe với những ca từ được chắt lọc, chau chuốt, giàu chất văn học.
Nhớ lại cuộc kháng chiến chống Mỹ, ta không thể quên một trong những địa danh hết sức bi tráng, oai hùng, dấu tích của chủ nghĩa anh hùng cách mạng chói sáng là Truông Bồn. Nơi đây là địa danh thuộc huyện Đô Lương (Nghệ An), chứng kiến sự hy sinh quả cảm của một tiểu đội nữ thanh niên xung phong trong chiến tranh chống Mỹ năm xưa. Chuyện rằng hôm sau là ngày đối phương ngưng ném bom từ Vĩ tuyến 18 trở ra thì liền ngay hôm trước - nghĩa là chỉ cách đó đúng 1 ngày - cả tiểu đội thanh niên xung phong ở Truông Bồn hy sinh bởi một trận ném bom của địch. Tiểu đội gồm 10 nữ và 1 nam, tất cả có tuổi trên dưới 20. Bạn nam này có yêu một bạn nữ trong tiểu đội. Họ đã đi lại, được hai bên gia đình tác thành, đã ấn định cụ thể ngày làm lễ ăn hỏi và vu quy. Nhưng chưa kịp thực hiện thì họ đều vĩnh viễn ngã xuống cùng đồng đội tại Truông Bồn.
Câu chuyện này đã khiến Nguyễn Đình San xúc động mãnh liệt để cùng một lúc, trong vòng vài ngày, ông viết nênhai bài: Truông Bồn khúc tưởng niệm và Tiếng hát từ Truông Bồn. Cùng một đề tài, cùng bi tráng anh hùng ca, cùng đem đến cho người nghe những xúc động mạnh mẽ, lại cùng viết ở một thời điểm nhưng hai bài khác hẳn nhau. Đó là một ưu điểm trong sáng tác không dễ ai cũng đạt được.
Người nghe nhận ra chất liệu điệu ví dặm Nghệ An ở cả hai bài Truông Bồn khúc tưởng niệm và Tiếng hát từ Truông Bồn. Nhưng chỉ loáng thoáng, sau đó, tác giả phát triển giai điệu đi xa, nhưng vẫn rất nhất quán cả mạch âm nhạc. Đó cũng là phong cách âm nhạc của Nguyễn Đình San trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông: Bám sâu vào mảnh đất âm nhạc dân gian, truyền thống, dạt dào âm hưởng trữ tình sâu lắng, gây ấn tượng mạnh cho người nghe.
Nhạc sĩ Nguyễn Đình San.
Đặc biệt, Nguyễn Đình San rất chú trọng làm ca từ (lời bài hát). Lời những bài hát của ông luôn súc tích, giàu chất thơ và rất chắt lọc. Ta hãy nghe ông kể chuyện: “Truông Bồn hôm nay vẫn một màu mây trắng. Trời vẫn xanh một màu xanh bình lặng. Cây lá vẫn non tươi bát ngát. Hoa mua tiếc thương ai mà vẫn tím ngắt...” (Truông Bồn khúc tưởng niệm). Hoặc: ..."Nhớ mãi ngày năm ấy, bi thương một Truông Bồn. Những người con quê hương đã ngã xuống nơi đây, yên nghỉ trong lòng đất mẹ và nhớ ai đã lỡ một câu thề. Ngày vu quy đôi lứa biệt ly, ra đi mãi, đi mãi không về...”
Từ lâu, bà con Quảng Trị cũng như bạn đọc cả nước đã rất xúc động khi đọc bài thơ ngắn gọn của cựu chiến binh Lê Bá Dương. Bài thơ nổi tiếng chỉ có bốn câu:
Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm.
Đến bên sông Thạch Hãn, cảm thấy dòng nước như còn đỏ máu các chiến sĩ cảm tử năm xưa, Nguyễn Đình San liền phổ nhạc bài thơ trên. Nhạc sĩ giữ nguyên lời thơ, chỉ thay một từ duy nhất của tác giả bài thơ là “thành” sang “như” (Thơ: “Có tuổi 20 thành sóng nước”). Theo nhạc sĩ, sửa một chữ chỉ để khớp với nốt nhạc.
Bài thơ rất ngắn, chỉ có bốn câu mà nhạc sĩ phổ thành bài hát hoàn chỉnh. Đó là một nghệ thuật cao cường. Sở dĩ chỉ có bốn câu thơ mà tác giả tạo nên bài hát hay, không cần viết thêm lời là vì ông đã khéo sử dụng đoạn xô ("hò khoan”) để trên cái nền diễn tả sông nước ấy, giọng nam cất lên. Bài hát này là một trong những bài phổ thơ rất hay. Giai điệu mang rõ màu sắc dân ca Quảng Trị, gợi cảnh sông nước và cảm xúc thật nghẹn ngào được toát ra trong từng nốt nhạc khiến ngay lần đầu giai điệu vang lên, người nghe đã rất ấn tượng. Không một ai đã từng chiến đấu ở Quảng Trị mùa hè đỏ lửa năm 1972 lại không ưa thích và đặc biệt xúc động khi nghe bài hát này.
Dân tộc ta liên miên sống trong chiến tranh, đương đầu với đủ loại giặc giã xâm lược. Thực tế đó đã tôi rèn nên người Việt Nam gan góc, ngoan cường, dạn dày trong chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Cũng có một thực tế nữa mà nhiều người trên thế giới đã không sao hiểu được: Một đất nước nhỏ, quân đội được trang bị còn thô sơ, không thể đọ được với những nước lớn mạnh hơn gấp bội về vũ khí, trang thiết bị quân sự lại có thể liên tục chiến thắng mọi kẻ thù.
Thì đây, Nguyễn Đình San đã thêm một lời cắt nghĩa điều đó - bằng nghệ thuật chứ không bằng lời nói. Đó là sự hy sinh vô cùng cao cả - không kém gì sự hy sinh của những chiến sĩ ngoài tiền tuyến của những người vợ, người mẹ và những người chưa là vợ, mới là người yêu. Bài Nàng Tô Thị không con, phổ thơ Trần Nhuệ đã ghi ơn, tôn vinh những cô gái phải chịu sự hy sinh khi chờ đợi người yêu ra trận, nhưng rồi đã vĩnh viễn không về khiến họ rốt cục đã “không có một đời làm vợ, một đời làm mẹ, một đời người”.
Thật khó cầm được nước mắt khi nghe ca khúc này: “Chưa kịp đôi mươi anh lên đường ra trận, giấu trong túi áo ngực nơi trái tim tấm hình người con gái. Tròn 20, nấm mồ anh xanh cỏ, để lại quê hương một đôi mắt héo hon chờ, chờ người đi mãi, đi mãi không về...”. Ca sĩ Vô Thanh khi thu ca khúc mãi mới thu được vì chị khóc giữa chừng do nghe quá xúc động.
Nếu bài Lời sông Thạch Hãn ngắn thì Nàng Tô Thị không con lại là một bài thơ dài, hầu như câu nào cũng hay. Nhưng khi phổ nhạc không thể tham lam đưa hết lời thơ vào ca khúc. Vì vậy mà nhạc sĩ phải lựa chọn để tổ chức những lời lẽ phong phú đó trong một bài hát có kết cấu hợp lý, mạch lạc. Bên cạnh vẻ bùi ngùi, xót xa, bài hát đem lại cho người nghe, tác giả còn để lại một dư âm về tầm vóc cao đẹp của những người phụ nữ Việt Nam luôn sáng ngời trong chịu đựng hy sinh để đổi lấy nền độc lập tự do cho dân tộc. Đó là cảm quan của người nghe khi thưởng thức tác phẩm này.
Thương binh liệt sĩ là một đề tài không thể thiếu vắng trong nền văn nghệ của một dân tộc luôn đề cao truyền thống đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. Một dân tộc luôn yêu chuộng hòa bình, trân quý độc lập tự do thì không thể lãng quên quá khứ trong đó máu của biết bao chiến sĩ đã đổ, dẫn tới hệ lụy với bao phụ nữ ở hậu phương đã phải hy sinh lớn lao mà không tác phẩm nghệ thuật nào có thể diễn tả hết.
Nguyễn Đình San với chùm ca khúc đặc sắc về thương binh liệt sĩ đã góp phần vun xới truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc ta.

Đó là Hoàng Trọng sống ở Sài Gòn từ sau năm 1954 – tác giả của những ca khúc viết về tình yêu nổi tiếng, đặc biệt...
Bình luận