Vĩnh biệt nhạc sĩ Đinh Quang Hợp

Vào lúc 6 giờ ngày 29/12/2022 vừa qua, nhạc sỹ Đinh Quang Hợp đã rời cõi tạm về xứ vĩnh hằng, để lại cho gia đình, bè bạn đồng nghiệp nỗi tiếc thương vô hạn.

Mấy năm nay, vẫn biết ông bị bệnh phổi hiểm nghèo khó qua khỏi nhưng nghe tin ông ra đi, tôi vẫn không khỏi bàng hoàng bởi giữa tôi và ông có nhiều kỷ niệm và mới chỉ trước khi ông nhắm mắt xuôi tay một thời gian không lâu, vẫn còn gặp, đàm đạo nhiều chuyện về âm nhạc và cuộc đời. Tuy sức khỏe đã yếu nhiều nhưng ông vẫn đau đáu những điều chưa kịp làm với những dự định thật lãng mạn. Ông còn nhiều ý tưởng sáng tác, nhất là trong địa hạt ca khúc. Ông nói với tôi: “Mình già, yếu rồi, khó có thể viết nhạc không lời có hiệu quả nhưng sáng tác ca khúc thì vẫn được vì mình vẫn luôn có nhiều cảm xúc với cuộc sống”.

Nhiều người yêu nhạc nghe cái tên Đinh Quang Hợp có thể chưa thấy quen như nhiều tên tuổi nhạc sỹ khác nhưng lại rất ưa thích bài hát Tiếng hát sông Lam mà ông là tác giả: “Ơ! Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục, thì biết cuộc đời răng là nhục là vinh. Thuyền em lên thác xuống ghềnh. Nước non là nghĩa là tình ai ơi…”.

Vĩnh biệt nhạc sĩ Đinh Quang Hợp - 1

Nhạc sĩ Đinh Quang Hợp 

Năm 1966, lúc này Đinh Quang Hợp đang giảng dạy ở Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam) cùng với mấy nhạc sỹ nữa đi thực tế ở khu 4 và bài hát trên đã ra đời trong dịp này. Người đầu tiên hát là nghệ sỹ Sông Thao. Khi ra Hà Nội, tác giả đem đến Đài Tiếng nói Việt Nam và được ca sỹ Tường Vi thể hiện lại trên làn sóng. Chỉ sau một vài lần phát, bài hát đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của thính giả. Rất nhiều thư từ khắp nơi gửi về Đài yêu cầu phát lại trong chương trình ca nhạc theo yêu cầu thính giả.

Chuyện rằng, một lần Hồ Chủ tịch đón tiếp một phái đoàn khách quốc tế, Người đã cho mời Tường Vi đến hát chiêu đãi khách. Chị đã hát bài này khiến Bác rất xúc động. Người nói với khách: “Bài hát này nói về quê tôi đó. Ở quê tôi, không nói là “nước” mà là “nác”, nhưng để cho phổ thông, dễ hiểu, tác giả đã dùng từ “nước””. Người cũng hỏi Tường Vi quê ở đâu mà hát bài về Nghệ An hay vậy, cứ như chính người quê ở đây hát.

Khi chị cho Bác biết mình quê ở Tam Kỳ (Quảng Nam) chứ không ở Nghệ - Tĩnh thì Bác rất khen, nói rằng: “Cháu đã ngấm được chất dân ca vùng Nghệ An nên hát rất hay, ra đúng chất vùng này”.Sau sự việc này, bài hát lại càng được Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng nhiều và vì vậy mà sức lan tỏa lại càng mạnh hơn. Cùng với bài Tiếng hò trên đất Nghệ An của nhạc sỹ Tân Huyền, Tiếng hát sông Lam của Đinh Quang Hợp được người dân Nghệ An coi là tỉnh ca (bài hát truyền thống của tỉnh).  

Nghe bài hát trên, nhiều người nghĩ Đinh Quang Hợp có quê ở Nghệ An. Nhưng không phải. Ông sinh ngày 6/6/1935 tại huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Lớn lên, ông đi văn công khu ủy Tây Bắc rồi về học sáng tác ở trường Âm nhạc Việt Nam. Học xong, tiếp tục được tu nghiệp thêm ở Nhạc viện Xô-phi-a (Bun-ga-ri) từ 1969 - 1972. Về nước, ông giảng dạy ở Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam). Về sau, chuyển sang làm Giám đốc Công ty biểu diễn Việt Nam thuộc Bộ Văn hóa (Vinaconcert) và nghỉ hưu tại đây.

Được học hành tương đối bài bản, Đinh Quang Hợp sáng tác kỹ, chỉn chu, thận trọng trong từng nốt nhạc. Số lượng tác phẩm của ông không nhiều nhưng ông viết chắc. Ông vẫn nói với học trò: “Các bạn khi chưa học có thể viết mạnh, viết nhanh vì “điếc không sợ súng”, nhưng khi đã học hành cẩn thận thì không thể viết như vậy mà phải cân nhắc rất kỹ từng nốt nhạc, từng chi tiết nhỏ nhất”. Quả đúng như vậy. Đó cũng là điều nhiều người cảm nhận được khi có dịp ngồi ghế nhạc viện học sáng tác.

Ngoài bài Tiếng hát sông Lam nổi tiếng, Đinh Quang Hợp còn những ca khúc có chất lượng khác: Con đường quê Thanh, Huyền thoại tình yêu, Hoa Lư non nước tình yêu, Bức thư sông Đà, Làng mới trên đất biển, Câu hò trên những dòng kênh, Tôi hát khi tàu xa bến, Sóng nước hình em, Ánh mắt vào đời, Nhịp cầu sông Mã…

Ông cũng là tác giả của một số tác phẩm khí nhạc: Bản sô-nát cho đàn piano Nước xoáy, sô-nát cho hai đàn piano và violon Cô gái đất dừa, tam tấu đàn thập lục Hội xuân, hòa tấu nhạc cụ cổ truyền Trên đồng ruộng quê hương. Thanh xướng kịch Lửa và hoa. Dịp chuẩn bị cho kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, ông viết bản giao hưởng hoành tráng Chiếu rời đô. Ngoài ra, có 6 bản giao hưởng khác và ô-pê-ra (nhạc kịch) Biển sống mãi trong tôi.

Đinh Quang Hợp là người giản dị, bình dân, có tính cách điềm đạm, ôn hòa, sởi lởi, dễ gần. Có chút vốn liếng, kinh nghiệm gì trong nghề nghiệp, ông tận tình chỉ bảo, truyền hết cho các học trò nên được họ rất quý mến, gần gũi. Với bạn bè, đồng nghiệp, ông chân tình, cởi mở.

Tôi có một số lần cùng ông đi sáng tác tiết mục cho các đoàn văn công địa phương. Năm 1981, chúng tôi cùng vào làm việc ở đoàn Ca múa miền núi Thanh Hóa (khi ấy, tỉnh này có hai đoàn ca múa, một miền xuôi và một miền núi). Đinh Quang Hợp có viết cho đoàn vở ô-pê-rét (nhạc kịch có quy mô nhỏ, ngắn hơn ô-pê-ra).

Trước khi dàn tập, ông nhờ tôi xem lại và sửa chữa phần lời ca. Tôi vừa nể, vừa cũng bận nên ngại, đã từ chối khéo. Ông nói: “Mình yếu về văn học, nhất là làm ca từ chưa được như ý. San giỏi văn chương và làm ca từ hay, gắng giúp mình. Cần thì mình đề tên cậu ở phần lời ca”. Tôi không đồng ý như vậy vì nếu có sửa giúp ông, chỉ là chút ít không đáng kể. Không thể đề liên danh như thế. Và tôi đã cố gắng đáp ứng ông.

Nói chi tiết này để thấy ông rất khiêm tốn, luôn cầu thị dù khi ấy đã có bài Tiếng hát sông Lam rất nổi tiếng và đang là giảng viên Nhạc viện Hà Nội, trong khi tôi thậm chí còn chưa ngồi ghế trường này. Ông còn rất chân tình khi góp ý sáng tác mới cho tôi mà không né tránh hoặc khen xã giao. Vậy nên ông là một trong những người tôi hay xin ý kiến mỗi khi viết xong một bài.

Thường ông góp ý rất đích đáng khiến tôi bị thuyết phục. Lần ấy, tôi viết bài Tiếng hát giữa quê hương. Sau khi nghe tôi hát, ông góp cho một chỗ thật chý lý. Tôi để một nốt ở vòng hòa thanh có phần mới mẻ. Ông đề nghị hãy dung dị ở một hòa thanh khác. Ông nói: “Muốn mới mẻ, hiện địa gì thì cũng phải phục vụ ý đồ ban đầu. Bài này cậu viết về chủ đề định canh định cư cho miền núi ở Thanh Hóa. Cả bài đã ổn. Đến chỗ đó nghe bật ra ngoài, không được lô-gic với cả mạch âm nhạc chung, nghe hơi gượng”. Lúc đầu tôi chưa thông và đã không nghe ông. Đến khi tập cho diễn viên, họ cũng nói như ông. Thế là tôi phải sửa lại như ý ông góp mới ổn.

Chẳng những sẵn sàng nghe lời góp của bất cứ ai về tác phẩm mới của mình, sau khi hoàn thành một bài, ông còn hay tham khảo tôi về việc lựa chọn ca sỹ thể hiện lần đầu tiên. Và ông luôn nghe theo. Ông có ý muốn thu thêm giọng một nam ca sỹ hát lại bài Tiếng hát sông Lam vì từ khi ra đời bài này, toàn nữ hát. Ông hỏi tôi nên là giọng nam nào. Tôi gợi ý ông tốt nhất là tìm ở đoàn Ca múa Nghệ An xem có nam ca sỹ nào không. Nếu chưa ưng ý, có thể thu giọng Trung Kiên. Nhưng ông nói Trung Kiên giọng bay, điêu luyện nhưng hơi sắc. Cuối cùng tôi nghĩ đến giọng Kiều Hưng. Nhưng không hiểu sau đó vướng mắc gì mà việc không thấy thực hiện. Đến bây giờ, chỉ toàn nữ hát bài này.

Đinh Quang Hợp cũng không giấu những chuyện thuộc cõi riêng tư. Ông rất hồn nhiên kể cho tôi nghe những ngày đầu tiên ông và phu nhân đến với nhau. Ông hỏi bà: “Anh hơn em những 10 tuổi, lại là dân âm nhạc, văn nghệ, chẳng được tích sự gì. Em thấy anh có gì hay không mà đến với anh?” (Ngày ấy, hơn nhau như thế đã được coi là nhiều). Bà lườm ông một cách âu yếm rồi nói: “Anh khờ lắm. Không có gì hay thì giờ đã không ở bên nhau như thế này”. Ông lại hỏi tiếp: “Những gì hay nào?”. Bà lắc đầu, không nói. Cho đến lúc xế bóng của cuộc đời, ông bà vẫn luôn xưng hô “anh, em” rất tình cảm mà không bao giờ “ông, bà” thay cho ngôi các cháu như nhiều cặp uyên ương lúc về già. 

Bị bệnh phổi nặng từ mấy năm nay, mặc dù được gia đình tận tình chăm sóc, cứu chữa nhưng vẫn tiến triển xấu, Đinh Quang Hợp đã vĩnh biệt vợ con và những người thân thích, bè bạn về miền mây trắng. Ông hưởng thọ 88 tuổi và lưu danh với một ca khúc để đời, xứng đáng nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2012 và được Hội đồng chuyên ngành cấp Nhà nước đề nghị xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật đợt này.

Thôn Ca

Tin liên quan

Tin mới nhất

Phát động cuộc thi viết

Phát động cuộc thi viết "Kỷ niệm 70 năm Giải phóng Thủ đô: Ký ức tự hào”

Báo Hà Nội mới vừa tổ chức lễ phát động viết kỷ niệm 70 năm Giải phóng Thủ đô “Ký ức tự hào”. Cuộc thi hướng tới kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 – 10/10/2024) và 67 năm ngày Báo Hà Nội mới xuất bản số hằng ngày đầu tiên (24/10/1957 - 24/10/2024). Cuộc thi nhằm tuyên truyền sâu rộng về tầm quan trọng, ý nghĩa lịch sử của ngày Giải phóng Thủ đô, truyền thống