Khơi dậy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam – từ giá trị bản sắc đến năng lực cạnh tranh quốc tế

LTS: Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, khi sức mạnh mềm trở thành thước đo vị thế và tầm ảnh hưởng của mỗi quốc gia, việc khơi dậy và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đang được xem là chìa khóa chiến lược cho sự phát triển bền vững của Việt Nam. Dựa trên tinh thần Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV, bài viết của TS. Nguyễn Danh Ngà và TS. Lê Duy Dũng phân tích tiềm năng khơi dậy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam từ giá trị bản sắc dân tộc – nền tảng cốt lõi tạo nên sức hấp dẫn và năng lực cạnh tranh quốc tế. Từ việc bảo tồn di sản, phát triển công nghiệp văn hóa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế đến ứng dụng văn hóa số, các tác giả chỉ ra con đường để Việt Nam biến sức mạnh mềm thành lợi thế phát triển mới, khẳng định vị thế quốc gia trong kỷ nguyên hội nhập và chuyển đổi số.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sức mạnh mềm đã trở thành một yếu tố then chốt quyết định vị thế của các quốc gia trên trường quốc tế. Các tài liệu nghiên cứu về sức mạnh mềm trên thế giới và Việt Nam phần đông và chủ yếu dựa vào khái niệm và khung lý thuyết của giáo sư người Mỹ Joseph Nye. Khái niệm sức mạnh mềm, được GS. Joseph Nye định nghĩa như là khả năng thu hút và thuyết phục thông qua văn hóa, giá trị và chính sách ngoại giao, không chỉ bổ trợ cho sức mạnh cứng mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Sức mạnh mềm của quốc gia thường xuất phát từ ba nguồn lực: văn hóa quốc gia, hệ giá trị quốc gia và chính sách quốc gia. Như vậy, sức mạnh mềm bắt nguồn từ các giá trị văn hóa (hiểu theo nghĩa rộng) là sức mạnh mềm văn hóa. Thuật ngữ “sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam” cũng đã được nêu trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, là: “… xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam.

Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (tháng 11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ một trong những điều cần làm khi chấn hưng nền văn hóa Việt Nam là phải: “Phát triển “sức mạnh mềm” của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới”.

Từ sau Đại Hội XIII của Đảng, thuật ngữ “sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam” ngày càng được quan tâm đề cập, không chỉ trên phương diện học thuật, nghiên cứu mà còn cả trong thực tiễn triển khai quản lý phát triển của đất nước. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 của đất nước (tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021) đã xác định quan điểm “phát huy sức mạnh mềm văn hóa”. 

Sức mạnh mềm nói chung và văn hóa nói riêng không phải là sự áp đặt mà là sự lan tỏa tự nhiên, dựa trên sức hấp dẫn của các giá trị văn hóa, giúp các quốc gia xây dựng hình ảnh tích cực và tăng cường ảnh hưởng mà không cần đến sức mạnh quân sự hay kinh tế thuần túy. Trong lịch sử, các cường quốc như Mỹ với Hollywood hay Hàn Quốc với Kpop đã chứng minh sức mạnh mềm có thể chuyển hóa thành lợi thế cạnh tranh toàn cầu, thúc đẩy xuất khẩu văn hóa và thu hút đầu tư (Anholt, 2010).

Đối với Việt Nam, một quốc gia có lịch sử văn hóa phong phú và bản sắc văn hóa dân tộc đậm đà, việc khơi dậy sức mạnh mềm từ giá trị bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ là nhiệm vụ chiến lược mà còn là yêu cầu cấp thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và cạnh tranh địa chính trị gay gắt, Việt Nam cần chuyển hóa bản sắc này thành sức mạnh mềm để đối phó với các thách thức như xâm lấn văn hóa ngoại lai và mất cân bằng trong hội nhập.

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XIV đã khẳng định rõ nét vai trò của văn hóa như nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh và động lực phát triển đất nước. Cụ thể, Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế để biến văn hóa thành nguồn lực cạnh tranh.

Khơi dậy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam – từ giá trị bản sắc đến năng lực cạnh tranh quốc tế - 1

"Anh trai vượt ngàn chông gai" lan tỏa tinh thần về giá trị văn hoá truyền thống đến khán giả. Ảnh: Yeah1

Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc - Nền tảng cốt lõi của sức mạnh mềm Việt Nam

Bản sắc dân tộc là cái riêng biệt, đặc trưng, cái tốt đẹp và giá trị, làm nên cốt lõi vững chắc, dấu ấn đặc biệt của một nền văn hóa, của một dân tộc để phân biệt văn hóa dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa tinh túy nhất, cô đọng nhất, bền vững nhất, là sắc thái cội nguồn, riêng biệt của mỗi dân tộc, làm cho dân tộc này không thể lẫn với dân tộc khác. Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc là cốt lõi hình thành nên sức mạnh mềm của một quốc gia. 

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã hệ thống hóa các giá trị này thông qua việc xây dựng hệ giá trị quốc gia (hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc), hệ giá trị văn hóa Việt Nam (dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học), hệ giá trị gia đình (tiến bộ, văn minh, ấm no, hạnh phúc) và chuẩn mực con người Việt Nam (yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo) (Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV, 2025). 

Như Đảng ta đã xác định, đất nước đang bắt đầu chuyển sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Động lực cho sự “thoát xác” như vậy, như lý luận và thực tế kinh nghiệm quốc tế đã đúc kết cho thấy, là văn hóa với những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng cốt lõi hình thành nên sức mạnh vượt trội để vươn mình của một dân tộc, một quốc gia. Thế giới đã từng chứng kiến những dân tộc, những quốc gia từng vươn mình mạnh mẽ từ tình trạng kém phát triển trở thành nước phát triển chỉ trong thời gian ngắn (vài ba thập niên) như Nhật Bản, Hàn Quốc hay gần đây nhất là Trung Quốc. Tất nhiên, không thể sao chép cơ học mô hình, con đường, cách thức vươn mình của họ vì nhiều lẽ (bối cảnh vươn mình, truyền thống dân tộc, đường lối chính trị, …). Thế nhưng có điểm chung cơ bản trong tất cả các mô hình, con đường, cách thức vươn mình phát triển của các nước đã thành công là bồi đắp và sử dụng, phát huy cao nhất sức mạnh mềm của quốc gia trên cơ sở bản sắc văn hóa dân tộc như là nền tảng cốt lõi. Đó cũng là bản chất của khái niệm này trong lý thuyết về sức mạnh mềm của GS. J. Nye là đạt được điều ta muốn bằng sự thuyết phục hoặc sức hấp dẫn dưới hình thức văn hóa, tư tưởng và chính sách đối ngoại.

Ở Việt Nam, biểu hiện rõ ràng nhất về luận điểm nêu trên là sự thuyết phục, sức hấp dẫn của ngoại giao “cây tre” như là phương châm chủ đạo trong hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay. Ngoại giao “cây tre” thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của Việt Nam, góp phần không chỉ tạo nên sức mạnh mềm mà còn cả sức mạnh cứng (vốn, công nghệ, khoa học, quân sự, …) của đất nước trong hội nhập quốc tế.

Như vậy, giá trị bản sắc văn hóa dân tộc là nền tảng cốt lõi để khơi dậy sức mạnh mềm, đòi hỏi sự kết hợp giữa bảo tồn truyền thống và sáng tạo hiện đại, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển đất nước qua mọi kỳ Đại hội của Đảng và ngày nay đang được phát huy, cụ thể hóa hơn nữa trong văn kiện trình Đại hội XIV, phù hợp với bối cảnh phát triển của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Để khơi dậy sức mạnh mềm từ bản sắc dân tộc, cần chú trọng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, đòi hỏi sự kết hợp giữa bảo tồn truyền thống và sáng tạo hiện đại, phù hợp với định hướng của Đảng.

Khơi dậy sức mạnh mềm của đất nước qua phát triển văn hóa và hội nhập quốc tế

Các giá trị văn hóa chỉ có thể trở thành sức mạnh mềm khi được khơi dậy và phát huy. Đó chính là lý do mà trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện phát triển đất nước Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định, nhấn mạnh bên cạnh vai trò nền tảng và động lực phát triển đất nước của văn hóa thì cần chú ý khơi dậy và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa. Trong tất cả các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các tính từ “mạnh mẽ”, “toàn diện” luôn gắn liền với từ phát huy, phát triển, khơi dậy khi đề cập tới văn hóa, thậm chí còn luôn có mặt trong tiêu đề trong các văn kiện. Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV dành riêng phần “V. Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam” để khẳng định văn hóa là sức mạnh mềm, phương tiện lan tỏa giá trị dân tộc một cách thân thiện và nhân văn.. 

Đối với Việt Nam, trong bối cảnh phát triển mới của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, theo định hướng xuyên suốt mọi chiến lược phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước về văn hóa, cần chú ý vào các trọng tâm sau:

Một là, cần phát triển ngành công nghiệp văn hóa như một trụ cột của sức mạnh mềm. Công nghiệp văn hóa, bao gồm phim ảnh, âm nhạc, du lịch và nghệ thuật, không chỉ tạo giá trị kinh tế mà còn quảng bá bản sắc dân tộc. Theo RMIT University, Việt Nam nên tập trung vào phim ảnh và âm nhạc như xuất khẩu văn hóa mới, giúp nâng cao sức mạnh mềm du lịch (RMIT, 2025). Dự thảo Văn kiện đề xuất đẩy mạnh công nghiệp văn hóa với mục tiêu đóng góp 7 - 10% GDP vào năm 2030, đồng thời kết nối chặt chẽ với du lịch để tạo sản phẩm có năng lực cạnh tranh quốc tế. Phân tích sâu, theo báo cáo của Vietnam Law Magazine, ngoại giao văn hóa đã củng cố sức mạnh mềm Việt Nam trong kỷ nguyên mới, với tăng trưởng kinh tế 8% năm 2025 nhờ văn hóa (Vietnam Law Magazine, 2025).

Hai là, hội nhập quốc tế là chìa khóa để biến sức mạnh mềm thành lợi thế cạnh tranh. Theo Nghị quyết 22 - NQ/TW (2013), hội nhập phải giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV bổ sung khái niệm “ngoại giao văn hóa” và “ngoại giao công nghệ” để nâng cao vị thế Việt Nam, qua đó tham gia các cơ chế như UNESCO và ASEAN để quảng bá giá trị dân tộc (Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV, 2025). Thực tiễn cho thấy, việc Việt Nam đảm nhận vai trò tại UNESCO đã nâng cao sức mạnh mềm, với chỉ số Brand Finance tăng 20% trong thập kỷ qua (Brand Finance, 2024). Theo Nhan Dan, các học giả Việt Nam và quốc tế thảo luận về tiềm năng sức mạnh mềm văn hóa, nhấn mạnh cần đổi mới để cạnh tranh toàn cầu.

Tuy nhiên, hội nhập cũng mang thách thức như sự xói mòn bản sắc do văn hóa tiêu dùng toàn cầu. Giải pháp là xây dựng chính sách để tiếp thu tinh hoa nhân loại mà không mất đi cốt cách dân tộc, như phát triển giáo dục văn hóa và nâng cao nhận thức cộng đồng (Phạm Văn Em, 2019). Dự thảo Văn kiện nhấn mạnh việc xây dựng con người Việt Nam tự tin, tự cường, tự hào dân tộc để đối phó với các xu hướng văn hóa xấu độc.

Ba là, cần chú trọng văn hóa số và không gian mạng để khơi dậy sức mạnh mềm. Trong thời đại số cũng như định hướng chiến lược phát triển bền vững đất nước trong thời gian tới đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là xây dựng xã hội số, kinh tế số, công dân số thì tất yếu văn hóa cũng cũng phải là được số hóa. Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng nhất, cũng đang được hình thành và phát triển theo hướng số hóa, trở thành văn hóa số. Gắn liền với đó là sức mạnh mềm số. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định nhiệm vụ phổ cập kỹ năng số và xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng để bảo vệ bản sắc. Nên chăng nay là thời điểm, thời cơ để đề xuất đưa cụm từ “Sức mạnh mềm số”, “Sức mạnh mềm văn hóa số” vào trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, thay vì chỉ là “Văn hóa ứng xử trên mạng”, làm cơ sở cho cụ thể hóa thành hành động thực hiện trong kỷ nguyên số ngay sau Đại hội ?!

Từ sức mạnh mềm văn hóa đến năng lực cạnh tranh quốc tế - Nhiệm vụ và giải pháp

Trong thế giới hội nhập quốc tế ngày nay, cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản. Thị trường là chiến trường, trong đó lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc là cốt lõi, căn bản. Năng lực cạnh tranh là một chỉ báo quan trọng về vị thế, tầm ảnh hưởng của một quốc gia.

Thực tiễn và bài học kinh nghiệm quốc tế được đúc kết cho thấy năng lực cạnh tranh quốc gia có thể được thúc đẩy, tăng cường thông qua phát huy sức mạnh mềm văn hóa quốc gia. Các giá trị văn hóa, nhất là bản sắc văn hóa dân tộc được vun trồng, nuôi dưỡng theo đúng nghĩa đen gốc của từ văn hóa (theo Wikipedia gốc là từ tiếng Latinh "Cultus"), không chỉ là nền tảng, cốt lõi cho năng lực nội sinh văn hóa quốc gia mà có thể đóng góp trực tiếp tăng cường, nâng cao năng lực cạnh tranh vật thể. Ví dụ như hiệu ứng Kpop theo phong cách biểu diễn Hàn Quốc đã thúc đẩy làn sóng văn hóa Hàn Quốc lan tỏa mạnh mẽ ra thế giới, thúc đẩy tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ liên quan tới nó. Theo Allie Market Industry, chỉ tính riêng năm 2021 K-pop của Hàn Quốc đã tạo ra 8,1 tỷ USD cho thị trường tổ chức sự kiện Kpop vào năm 2021 và 220 triệu USD từ việc xuất khẩu album. Một nghiên cứu đã chỉ ra “cứ mỗi 100USD nhạc Hàn được tiêu thụ ở nước ngoài, thì có thêm 395USD hàng điện tử như điện thoại di động hay TV được xuất khẩu”.

“Anh trai say hi”, “Anh trai vượt ngàn chông gai”, “Chị đẹp đạp gió rẽ sóng”, “Em xinh say hi” ở nước ta trong 2 năm qua cũng bắt đầu tạo ra hiệu ứng tương tự tuy quy mô, sức lan tỏa chưa thể đem so sánh.

Năng lực cạnh tranh quốc tế của Việt Nam sẽ được nâng cao khi sức mạnh mềm từ giá trị bản sắc được chuyển hóa thành lợi thế kinh tế - xã hội. Đó cũng là định hướng phát triển văn hóa nước ta trong thời gian tới như đã được chỉ rõ trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV là cùng với khoa học, công nghệ, “văn hóa là động lực then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh, với mục tiêu hai chữ số tăng trưởng sau 2025”. 

Trong thời gian tới, để tăng cường, phát huy, lan tỏa tác động ảnh hưởng của sức mạnh mềm văn hóa đến năng lực cạnh tranh quốc tế cần quan tâm chú ý tới các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp sau:

Một là, cần tích hợp sức mạnh mềm vào ngoại giao kinh tế. Về bản chất, ngoại giao là nghệ thuật, là hoạt động sử dụng đàm phán, thương lượng, giao tiếp và hòa giải để thiết lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ giữa các quốc gia, nhóm hoặc cá nhân, nhằm mục đích thúc đẩy lợi ích và bảo vệ quyền lợi của mình một cách hòa bình. Do vậy, ngoại giao mang sắc thái văn hóa. Sự khéo léo, tinh tế, chân thành, chân thực trong ngoại giao có thể mang lại nhiều lợi ích to lớn cho các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, tạo hình ảnh quốc gia tốt đẹp như là biểu hiện của sức mạnh mềm, nhất là sức mạnh mềm đó thấm đượm bản sắc văn hóa dân tộc. Ngoại giao “cây tre” mà hiện nay được coi là đường lối ngoại giao chính thức của Việt Nam đang được thế giới đón nhận với nhiều thiện cảm là minh chứng. Để tích hợp sức mạnh mềm văn hóa vào ngoại giao văn hóa và kinh tế cũng rất cần một kịch bản bài bản để sức mạnh mềm ấy có thể hỗ trợ tối đa cho phát triển đất nước như cách mà Hàn Quốc đã nêu ở trên (cũng như một số nước khác như Nhật Bản, Trung Quốc, …) đã và đang làm.

Hai là, giáo dục và phát triển con người là yếu tố cốt lõi. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV nhấn mạnh xây dựng con người Việt Nam toàn diện, với giáo dục STEM kết hợp giá trị dân tộc để tạo lực lượng lao động cạnh tranh. Ví dụ, đẩy mạnh các chương trình giáo dục bản sắc dân tộc nhằm nâng cao ý thức tự hào ở thế hệ trẻ, góp phần vào sáng tạo và đổi mới với mục tiêu là nuôi dưỡng công dân Việt Nam với bản sắc dân tộc mạnh mẽ. 

Trước mắt cần tổ chức triển khai thực hiện “Đề án chuẩn mực đạo đức, văn hóa kinh doanh gắn với bản sắc dân tộc và tiếp cận được tinh hoa văn hóa kinh doanh thế giới” mà Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang xây dựng theo phân công của Chính phủ tại Phụ lục Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 Ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị số 68-NQ/TW ngày 04 tháng 5 năm 2025. Thực hiện nhiệm vụ này cũng đồng thời gắn với thực hiện nhiệm vụ về tăng đầu tư cho văn hóa, thu hút nguồn lực tư nhân nêu dưới đây.

Ba là, cần tăng cường và nâng cao chất lượng đầu tư cho văn hóa, xây dựng chính sách thu hút nguồn lực tư nhân và quốc tế gắn với hoàn thiện thể chế để hỗ trợ khơi dậy sức mạnh mềm văn hóa.

Như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đánh giá, “bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực trạng nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa hiện nay còn không ít bất cập, chưa xứng tầm, vẫn còn tình trạng thiếu đồng bộ, chưa đúng địa chỉ, dàn trải, hiệu quả chưa như mong muốn” và “Trong một thời gian dài, nhiều nơi, nhất là trong xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa vẫn chưa được đặt đúng vị trí, chưa phát huy được vai trò tham gia thúc đẩy các lĩnh vực khác của đời sống xã hội và theo đó, nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa còn rất khiêm tốn, chưa thật sự xứng tầm”. Việc sử dụng đầu tư cho văn hóa cũng còn nhiều bất cập.Trong số các nguyên nhân của tình trạng nêu trên có nguyên nhân mà cho đến nay còn ít được đề cập là đầu tư tư nhân, thậm chí còn chưa có đủ số liệu thống kê chính thức cũng như phân tích cụ thể, sâu sắc như đối với đầu tư nhà nước.Sức mạnh mềm văn hóa là kết quả của phát triển văn hóa. Sự phát triển và sức mạnh này là nội sinh, nằm trong lòng cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong mỗi con người Việt Nam, do vậy các cộng đồng, mỗi cá nhân con người Việt Nam có bổn phận và trách nhiệm vun đắp, bồi dưỡng, bao gồm cả Nhà nước và tư nhân. Mới đây (ngày 4/5/2025) Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW Về phát triển kinh tế tư nhân và Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 về Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04 tháng 5 năm 2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó yêu cầu rà soát, sửa đổi, ban hành mới các cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế tư nhân theo hướng làm cho kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Trong các các cơ chế, chính sách cần được rà soát, sửa đổi, ban hành mới này cần quan tâm chú ý khía cạnh đầu tư cả về tỷ lệ cũng như chất lượng đầu tư cho văn hóa, bao gồm cả từ phía Nhà nước và tư nhân. Đầu tư của Nhà nước cho văn hóa trong thời gian tới được thống nhất đề xuất tại Hội thảo văn hóa "Thể chế, chính sách và nguồn lực cho phát triển văn hóa" tổ chức năm 2023 là phải từ 2% tổng chi ngân sách nhà nước trở lên thay vì con số phấn đấu 1,8% của thời gian qua đã nêu ở trên.

Bốn là, đo lường và đánh giá sức mạnh mềm. Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới rất coi trọng vai trò quan trọng của sức mạnh mềm quốc gia như là nguồn lực chiến lược trong phát triển ngang bằng với sức mạnh quân sự. Điều này, như đã nói ở trên, được phản ánh rõ ràng và nhất quán trong các văn kiện lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước ta. Một khi coi tăng cường, củng cố sức mạnh mềm nói chung, sức mạnh mềm văn hóa nói riêng là nhiệm vụ chiến lược thì, cũng như đối với sức mạnh cứng, tất yếu cần đo lường và đánh giá sức mạnh mềm thông qua các chỉ số hay bộ chỉ số. Bộ chỉ số đo lường và đánh giá sức mạnh mềm văn hóa sẽ là phần cấu thành của bộ chỉ số đo lường và đánh giá sức mạnh mềm chung của quốc gia. 

Về phương pháp luận và phương pháp đo lường và đánh giá sức mạnh mềm hiện nay đã được nghiên cứu và đề xuất khá phong phú trong các công bố khoa học (có thể tra cứu trên internet với từ khóa measuring soft power). Có thể tham khảo và lựa chọn để xây dựng bộ chỉ số sức mạnh mềm phù hợp với điều kiện Việt Nam giống như PCI được lựa chọn trên cơ sở phương pháp luận và phương pháp của quốc tế. Thí dụ trong công bố của TS. Irene S. Wu trong công bố khoa học có tiêu đề “Đo lường sức mạnh mềm” (Measuring soft power), mục Các phương pháp: Đo lường thông thường sức mạnh mềm (Methods: Conventional measures of soft power) đề xuất đo lường mức độ hấp dẫn đối với quốc gia khác thông qua các chỉ báo về phim ảnh (Movie), viếng thăm (Visit), Giáo dục (Education) và Di cư (Emigration) theo thang đo từ hấp dẫn ngắn hạn (Short-term) cho tới hấp dẫn trong dài hạn (Long-term).

Tiềm năng sức mạnh mềm Việt Nam là to lớn, nằm trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, trong mỗi con người Việt Nam. Cần thiết khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tiềm năng này, nhất là tiềm năng sức mạnh mềm văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc theo sự lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng cộng sản Việt Nam.

TS. Lê Danh Ngà - TS. Lê Duy Dũng

Tin liên quan

Tin mới nhất

Cuộc thi vẽ tranh “Tiếng vang lịch sử” năm 2025: Cuộc đối thoại đầy cảm hứng giữa di sản và thế hệ hôm nay

Cuộc thi vẽ tranh “Tiếng vang lịch sử” năm 2025: Cuộc đối thoại đầy cảm hứng giữa di sản và thế hệ hôm nay

Cuộc thi vẽ tranh “Tiếng vang lịch sử” năm 2025 không chỉ góp phần làm sống dậy những giá trị của Văn Miếu - Quốc Tử Giám, mà còn mở ra một cuộc đối thoại đầy cảm hứng giữa di sản và thế hệ hôm nay, giúp nuôi dưỡng tình yêu lịch sử và ý thức trân trọng di sản trong thế hệ trẻ.