Một chặng đường nhiếp ảnh Việt Nam
Trong 50 năm qua (1975 - 2025) một quãng thời gian không ngắn nhưng cũng không dài so với lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc, nhưng đất nước đã phải trải qua bao thăng trầm thời cuộc. Trước tình hình đó, với trách nhiệm của người cầm máy, các nhiếp ảnh gia đã dũng cảm lao vào mặt trận phản ảnh cuộc chiến và đã gặt hái khá nhiều thành tựu mà lịch sử không thể nào quên.
Công tác giáo dục đào tạo
Nhiếp ảnh thế giới ra đời ngày 19/8/1839, với phát minh của Daguerre, một họa sĩ người Pháp. Chỉ 30 năm sau, ngày 14/3/1869 (tức ngày 2 tháng 2 năm Kỷ Tỵ), ông Đặng Huy Trứ, một quan chức triều Nguyễn đã đưa nhiếp ảnh vào Việt Nam. Ông cho mở hiệu ảnh lấy tên “Cảm Hiếu đường” tại phố Thanh Hà, Hà Nội.
Nhiếp ảnh vào Việt Nam được coi như là một nghề kiếm sống, chưa một ai coi nhiếp ảnh là một ngành nghệ thuật. Vì vậy, công việc đào tạo chủ yếu là “cầm tay chỉ việc”, như bao nghề thủ công khác, chưa có một trường lớp đào tạo bài bản như những ngành nghệ thuật khác: âm nhạc, hội họa, kiến trúc...
Bởi thế vào thời đó, người chụp ảnh được gọi là “phó nháy” (thợ chụp ảnh) như bao “phó” khác: phó mộc (thợ mộc), phó nề (thợ nề), phó cối (thợ đóng cối xay)...
Nhưng từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm đào tạo một lớp nhiếp ảnh có kiến thức về kỹ thuật, nghệ thuật, bởi coi nhiếp ảnh là một công cụ phản ánh hiện thực khách quan, một hình thái nghệ thuật, chiếm một vị trí xứng đáng trong đại gia đình văn học nghệ thuật Việt Nam như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, điện ảnh, văn học...
Thực hiện chủ trương đó, các cơ quan văn hóa, thông tin như Bộ Văn hóa Thông tin (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Thông tấn xã Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh vẫn tranh thủ mở những lớp ngắn hạn cho một số nhà báo, phóng viên ảnh, nhiếp ảnh gia..., để cung cấp cho chiến trường hai miền Nam Bắc và các cơ quan truyền thông, báo chí, xuất bản... những người làm nhiếp ảnh có trình độ hiểu biết về chuyên môn nhiếp ảnh.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước thống nhất, các hội nhiếp ảnh địa phương, đặc biệt Hội Nhiếp ảnh thành phố Hồ Chí Minh và Hội Nhiếp ảnh Nghệ thuật Hà Nội thường xuyên mở lớp ngắn hạn dạy về nhiếp ảnh từ sơ cấp lên bậc cao. Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam đã phối hợp với Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội và được sự đồng ý của Bộ Văn hóa Thông Tin (nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 1998, lần đầu tiên ở Việt Nam mở lớp nhiếp ảnh trình độ cao đẳng, trực thuộc Khoa Điện ảnh, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, thời gian học 3 năm. Sau 3 khóa, năm 2005, theo đề nghị của Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra quyết định thành lập Khoa Nhiếp ảnh đào tạo cử nhân nhiếp ảnh với khóa học 4 năm.
Buổi ban đầu, các giảng viên ngoài các thầy Nguyễn Mạnh Lân, Nguyễn Mạnh Lâm, thầy Lò Minh, thầy Trung Nhàn là các hội viên Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, những cử nhân nhiếp ảnh được đào tạo ở Liên Xô, CHDC Đức và đã kinh qua 20, 30 năm trong nghề như Lê Phúc, Vũ Huyến, Mạnh Thường, Chu Chí Thành. Họ là những thành viên đặt viên gạch đầu tiên lập nên Khoa Nhiếp ảnh, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội. Về sau còn có các nghệ sỹ Vũ Đức Tân, Văn Thành, Vũ Khánh. Hiện nay Khoa Nhiếp ảnh không chỉ phát triển theo chiều sâu, với nội dung giảng dạy bám sát thực tế cuộc sống với giáo trình mang tính khoa học mà còn phát triển cả về chiều rộng với 3 lớp nhiếp ảnh: nhiếp ảnh nghệ thuật, nhiếp ảnh báo chí và nhiếp ảnh truyền thông đa phương tiện.
Nhiếp ảnh phục vụ chiến đấu
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước thống nhất, mọi người hân hoan được sống trong cảnh thanh bình. Nhưng kẻ thù lại ra sức đánh phá, bao vây, cấm vận kinh tế, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Những người bạn láng giềng từng chung chiến hào chống giặc Mỹ xâm lược nay trở mặt, gây ra cuộc chiến tranh hai đầu đất nước:
Chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979.
Theo chân các chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam, các phóng viên ảnh của các cơ quan thông tấn, báo chí đã có mặt khắp các mặt trận của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam: Thông tấn xã Việt Nam có các anh Trung Tín, Văn Hiền, Đinh Quang Thành, Lê Cương, Quang Triệu, Trần Sơn. Báo Ảnh Việt Nam có phóng viên Phạm Tiến Dũng, Nguyễn Quang Vinh...
Tháng 6/1979, sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở chiến trường biên giới phía Bắc, nhà báo Trần Mạnh Thường được cử sang giúp bạn, trước hết chụp chân dung Tổng Bí thư Pen Xô Van và Chủ tịch Heng Xom Rin để phục vụ kịp thời cho ngày bầu cử thành lập Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia đồng thời sáng tác và biên tập cuốn sách ảnh Campuchia ngày mới, do NXB Văn hóa Thông tin Campuchia, thuộc Bộ Văn hóa Thông tin Campuchia ấn hành năm 1980 và cuốn sách ảnh Campuchia hôm nay. Ngoài ra còn giúp bạn xuất bản nhiều tập bưu ảnh, ảnh khổ to trang trí. Đồng thời cùng với nghệ sỹ Đinh Quang Thành, Hồng Sỹ, Kim Côn giúp bạn mở các lớp nhiếp ảnh cho các nhà nhiếp ảnh trẻ của SPK và của Bộ Văn hóa Thông tin Campuchia.
Trước sự thất bại nặng nề của tập đoàn diệt chủng Polpot - Ieng Sary, khiến nhà cầm quyền phương Bắc nổi trận lôi đình, họ Đặng tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học”. Sáng ngày 17/02/1979, Bắc Kinh xua 60 vạn quân chủ lực, được trang bị đầy đủ, xe tăng, đại bác ồ ạt tấn công sang toàn tuyến biên giới Việt - Trung từ Pò Hèn, Quảng Ninh đến Phong Thổ, Lai Châu dài trên 1.000km.
Ngày 5/3/1979, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành Quyết định số 446 - NQ/QHK6, quyết định Tổng động viên trong cả nước. Cùng ngày Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký Sắc lệnh số 29 Tổng động viên toàn dân đứng lên bảo vệ Tổ quốc, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược.
Trước tinh thần đoàn kết, chiến đấu ngoan cường của quân dân địa phương các tỉnh biên giới phía Bắc, quân Trung Quốc thất bại nặng nề, ngày 18/3/1979, quân Trung Quốc nhanh chóng rút về nước. Thực ra cuộc chiến biên giới phía Bắc kéo dài tới năm 1989 mới thực sự chấm dứt.
Cùng với toàn quân, toàn dân ta, các nhà nhiếp ảnh một lần nữa lên đường ra mặt trận. Tham gia cuộc chiến này có khá nhiều phóng viên của các cơ quan thông tấn, báo chí. Thông tấn xã Việt Nam có các phóng viên Văn Phú, Văn Bảo, Đinh Quang Thành, Trần Tuấn, Đình Trân, Minh Đạo, Sỹ Châu..., báo Quân đội Nhân dân có Bùi Duy Ly, Nguyễn Đình Ưu, Ngọc Thông, Vũ Đạt..., báo Nhân dân có nhà báo Trịnh Hải, Phạm Kim...
Nhưng do chiến thuật đánh vu hồi, tập hậu, của kẻ địch, vì vậy, sáng 17/02/1979, hầu hết các nhà báo gặp khó khăn khi tác nghiệp tại mặt trận. Riêng nhà báo Trần Mạnh Thường được lệnh lên ngày 16/02/1979 và ngay chiều hôm đó đã xuống ngày gần biên giới nên đã ghi được trận đánh đầu tiên của Đại đội 10, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 81, Sư 346, diệt và bắt sống nhiều xe tăng địch tại Bản Sẩy, gần thị trấn Nước Hai, huyện Hòa An, Cao Bằng và đã chụp được trận đánh của quân dân ta trên đồi Nà Toòng, thị xã Cao Bằng.
Chiến sĩ Trung đoàn 567 xung phong ở đèo Khau Chỉa – Ảnh: Mạnh Thường
Tại đây quân ta đã bắn cháy nhiều xe tăng địch đi từ Đông Khê, Thất Khê lên. Nhà báo Trần Mạnh Thường, phóng viên có mặt sớm nhất tại mặt trận Cao Bằng từ 17/02 - 5/3/1979 và đã ghi được khá đầy đủ hình ảnh cuộc chiến ác liệt, vô cùng dũng cảm của quân và dân Cao Bằng. Tất cả những ảnh đó đã được các báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Tiền phong, Lao động, báo Ảnh Việt Nam lúc bấy giờ đăng tải khá đầy đủ. Và 40 năm sau, năm 2019, nhà báo Mạnh Thường đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách ảnh Nhìn lại cuộc chiến biên giới phía Bắc, 1979, do NXB Hội Nhà văn ấn hành và được nhà văn Nguyễn Quang Thiều viết Lời giới thiệu.
Công tác sáng tác và triển lãm
Sau hai cuộc chiến biên giới hai đầu đất nước chấm dứt, cuộc sống trở lại bình thường, nhiều nghệ sỹ - chiến sỹ vừa rời chiến trường họ lao ngay vào phản ánh cuộc sống đời thường, trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và kiến thiết đất nước.
Một số nghệ sỹ say sưa phản ánh công cuộc xây dựng đường dây điện cao thế 500Kw Bắc Nam, các nhà máy thủy điện Hòa Bình, thủy điện Sơn La, Lai Châu, Ya Li, Trị An... thì một số nhiếp ảnh gia khác lăn lộn trên các công trường mở rộng Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, đường Cao tốc Bắc - Nam, cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Quảng Ninh... các công trình sân bay quốc tế Cam Ranh, Khánh Hòa, sân bay Vân Đồn, sân bay quốc tế Vinh Nghệ An, Sân bay quốc tế Long Thành, Phú Quốc...
Tại những công trình này, các nghệ sỹ qua ống kính của mình đã phản ánh một cách trung thực nhất, sinh động nhất các hoạt động quên mình của các công nhân trong những đêm đông giá lạnh hay những ngày hè nóng bỏng. Tuy gian nan vất vả, nhưng họ vẫn hăng say vui tươi làm việc quên cả mệt nhọc.
Hội Nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam còn tổ chức cho hội viên đi thực tế sáng tác hưởng ứng phong trào Một dải biên cương hòa bình hữu nghị. Một số nhiếp ảnh gia trẻ khỏe, nỗ lực trèo đèo, lội suối, bất chấp hiểm nguy, theo chân các chiến sỹ biên phòng ghi lại những khoảnh khắc chiến đấu chống lại kẻ thù xâm phạm biên giới, hải đảo hoặc bao vây bắt gọn những kẻ hoạt động trong bóng tối vận chuyển buôn bán ma túy, thuốc lắc... trong lúc đó một số khác vượt trùng dương đến với các chiến sỹ biển đảo Trường Sa để ghi lại những chiến công của các anh ngày đêm canh giữ biển trời Tổ quốc thân thương. Bên cạnh những hình ảnh chiến đấu ngoan cường của quân dân biển đảo Trường Sa, các nghệ sỹ không quên phản ảnh những hoạt động tăng gia sản xuất nhằm cải thiện đời sống.
Có được những thành tích đó trước hết là nhờ Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam chủ động tổ chức nhiều chuyến đi sáng tác cho hàng trăm hội viên. Thật vậy, từ sau ngày đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế đến nay, Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam đã tổ chức trên 300 cuộc liên hoan ảnh nghệ thuật cho 8 khu vực và 12 cuộc thi và triển lãm ảnh nghệ thuật quốc tế tại Việt Nam, phối hợp với Bộ Văn hóa Thông tin (nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) 2 năm 1 lần tổ chức thi và triển lãm ảnh nghệ thuật đến nay đã thực hiện được 40 cuộc.
Lễ tốt nghiệp của sinh viên lớp Nhiếp ảnh nghệ thuật và báo chí, khóa 2014-2020, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội
Công tác lý luận và phê bình ảnh
Công tác lý luận phê bình ảnh vừa yếu lại vừa thiếu. Đội ngũ làm công tác lý luận phê bình nhiếp ảnh vốn đã rất ít lại không được đào tạo bài bản. Những cây bút lý luận phê bình thế hệ đầu tiên từ ngày đầu thành lập Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh đều là những nhà nhiếp ảnh trưởng thành từ sau Cách mạng tháng Tám, hầu hết họ chẳng những không được đào tạo về công tác lý luận mà ngay cả kỹ thuật, nghệ thuật cũng không được đào tạo đến nơi đến chốn, chủ yếu tự học qua sách vở và từ trong thực tế sáng tác.
Ở giai đoạn này có một số nhà văn, họa sỹ yêu nghệ thuật nhiếp ảnh cũng tham gia viết lý luận ảnh, nhưng chưa thành mẫu mực về lý luận ảnh, phần lớn là giới thiệu tác giả và tác phẩm, trong đó có phân tích phê bình theo cảm tính, chưa thành lý tính.
Những cây bút lý luận thế hệ thứ hai có nhiều người được đào tạo cơ bản về nhiếp ảnh ở các trường đại học của CHDC Đức, Liên Xô như Lê Phức, Mạnh Thường, Vũ Khánh, Chu Chí Thành, Vũ Huyến, Vũ Đức Tân, Phạm Tiến Dũng, Văn Thành, Đặng Đình An...
Tuy vậy, họ không được đào tạo cơ bản về lý luận phê bình ảnh, nhưng với kiến thức sâu về nhiếp ảnh lại được tiếp cận với nền văn học nghệ thuật tiến tiến thế giới, nên khi về nước ngoài hoạt động sáng tác ảnh ở các cơ quan báo chí, xuất bản họ còn tham gia viết bài, phân tích đánh giá cái được, cái khiếm khuyết trong từng tác phẩm qua các cuộc triển lãm. Những bài viết của họ có sức thuyết phục cao, gây được sự chú ý của giới truyền thông. Nhiều người trong số họ, ngoài việc xuất bản sách ảnh còn cho xuất bản sách lý lý luận phê bình ảnh. Những cuốn sách đó đã trở thành tài liệu tham khảo cho sinh viên Khoa Nhiếp ảnh Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh và cho những ai yêu thích nhiếp ảnh.
Ngoài thế hệ thứ hai còn có một đội ngũ tốt nghiệp đại học, tuy không được đào tạo nhiều về nhiếp ảnh nhưng họ trưởng thành từ hoạt động nhiếp ảnh trong các cơ quan báo chí như Nguyễn Đặng, Lâm Tấn Tài, Nguyễn Đức Chính, Huy Hoàng, Hoàng Kim Đáng, Đồng Đức Thành, Lê Xuân Thăng,.. Họ là tác giả của nhiều bài viết có giá trị về học thuật được đăng trên các tạp chí nhiếp ảnh như Tạp chí Nhiếp ảnh, Ánh sáng đẹp, Thế giới ảnh.
Hiện nay một thế hệ các nhà lý luận phê bình ảnh trẻ mới ra đời, tuy số lượng còn ít ỏi, nhưng có khả năng kế tục sự nghiệp của các đàn anh đàn chị bằng những công trình lý luận phân tích sâu, với cái nhìn mới, phát hiện được những yếu tố mới trong những tác phẩm ảnh, phù hợp với thời đại 4.0. Vì vậy được sự quan tâm của công luận. Đó là các cây bút: Trần Quốc Dũng, Việt Văn, Vũ Kim Khoa, Lưu Quang Phổ, Phan Thị Phương Hiền, Chu Thu Hảo...

Lật giở từng trang sách ảnh "Tây Nam Bộ kháng chiến - lịch sử qua ống kính (1945-1975)", tôi không đơn thuần "xem" lịch...
Bình luận