"Trưởng tộc" - câu chuyện văn hóa làng

“Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê” (Hoài Thanh)

Sống với... tiểu thuyết

Năm 2018, tôi đã viết bài Hiện tượng Phạm Quang Long, đăng trên báo Người Hà Nội, sau khi nhà văn ra mắt cuốn tiểu thuyết thứ ba có nhan đề Cuộc cờ. Tính đến năm 2025 này, tác giả thuộc đội hình U80 đã dâng tặng bạn đọc bảy cuốn tiểu thuyết đều nặng ký: Lạc giữa cõi người (2016), Bạn bè một thuở (2017), Cuộc cờ (2018), Chuyện làng (2020), Mùa rươi (2020), Chuyện phố (2024) và Trưởng tộc (2025). Ông Nguyễn Thanh - nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình, trong Lời bạt đã viết dự đoán, nếu tiếp tục đề tài “trưởng” thì nhà văn Phạm Quang Long sẽ viết tiếp Trưởng thôn, Trưởng xã, Trưởng huyện, Trưởng tỉnh (bài này ông Nguyễn Thanh viết vào độ Tết Giáp Thìn, 2024, nên đơn vị hành chính cấp huyện vẫn còn).

"Trưởng tộc" - câu chuyện văn hóa làng - 1

"Trưởng tộc" - Phạm Quang Long, NXB Phụ nữ Việt Nam

Trong vòng 9 năm mà “đẻ” 7 cuốn tiểu thuyết thì cũng đáng coi là một kỷ lục văn chương. Có anh bạn thân cùng khóa đại học với nhà văn Phạm Quang Long viết trên facebook rằng, vì mê viết tiểu thuyết, cần nhiều thời gian tĩnh lặng để yên ổn gõ máy, ông Long đã tích cực “động viên vợ” năng đi du lịch cùng anh chị em ruột thịt, họ hàng, bạn bè. Rồi cứ một mình một ngựa rong ruổi với con chữ triền miên, sinh hạ được quá nửa tiểu đội là những đứa con tinh thần đều khôi ngô tuấn tú, khỏe mạnh. PGS.TS La Khắc Hòa (Bút danh Lã Nguyên) đã viết một bài rất dí dỏm và thâm thúy Phạm Quang Long - tiến vi quan, thoái vi văn sỹ.

Tôi cứ vân vi, 7 năm - hơn 2000 ngày, viết và in 7 cuốn tiểu thuyết, cuốn nào cũng nặng ký (tổng số trang phải hơn 2000 trang), thì đúng là “ăn tiểu thuyết, ngủ tiểu thuyết, đi tiểu thuyết, ngồi tiểu thuyết”, như cách nói hiện giờ là làm việc có hiệu lực - hiệu năng - hiệu quả. Nói hình tượng thì, ngòi bút tiểu thuyết Phạm Quang Long luôn cháy đến giọt cuối cùng, mỗi ngày là một ngày áp chót. Theo như tác giả chia sẻ, hiện có ba bản thảo tiểu thuyết đang nằm trong “ngăn kéo”, sẽ lần lượt đến tay bạn đọc trong một tương lai gần.

Đáng nói hơn cả là, trong số bảy cuốn tiểu thuyết đã in, có đến bốn cuốn tập trung vào chủ đề “tam nông” (nông thôn - nông nghiệp - nông dân). Rõ ràng là, nhà văn Phạm Quang Long có sở trường về văn hóa làng in dấu trong bốn trên bảy tiểu thuyết đã xuất bản: Bạn bè một thuở, Chuyện làng, Mùa rươi, Trưởng tộc. Tôi gọi ông là “nhà văn cắm bản” (làng), kiểu “nhà giáo cắm bản” thường thấy trong ngành giáo dục lâu nay. Phải hiểu, phải yêu, phải vui, phải trăn trở, phải buồn tình, phải hy vọng đến mức nào về làng đến chân tơ kẽ tóc mới theo đuổi được dài lâu cái không gian đặc trưng văn hóa Việt Nam lâu bền và có thành quả như vậy, khi viết tiểu thuyết. 

"Trưởng tộc" - câu chuyện văn hóa làng - 2

Bốn tác phẩm về “tam nông” (nông thôn - nông nghiệp - nông dân) của nhà văn Phạm Quang Long

Trong Mấy lời thưa trước, nhà văn Phạm Quang Long viết “Tôi tặng những cuốn sách này cho làng tôi để tri ân những người con của làng đã đào luyện nên tôi - một gã nhà quê dù sống ở thị thành là chính nhưng vẫn là một người làng đúng nghĩa đen của từ này”.

Trưởng tộc - câu chuyện văn hóa làng Việt

Văn chương đương đại Việt Nam đã và đang tiếp cận sâu sắc hơn đề tài “tam nông”. Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã đột phá vào đề tài “tam nông” bằng tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, 1991, đã được dịch ra tiếng Anh, Pháp). Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gặt hái được thành công trên đề tài này (Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê).

Rất lạ là, một nhà văn gốc Hà Nội chính hiệu như ông viết về “tam nông” hay hơn cả những nhà văn sinh ra từ đồng ruộng, thoạt đầu cũng chân lấm tay bùn, cũng gắn bó với làng và nồng nã với hương quê, cố cư.

Làng Việt truyền thống với ý nghĩa là một đơn vị văn hóa cơ bản, quan trọng của xã hội phong kiến Việt Nam hàng ngàn năm gắn chặt với đời sống nhiều mặt của người nông dân vốn lam lũ, cần cù, chăm chỉ, chất phác, mang căn tính chân quê; làng Việt đa mang (hỗn dung) nhiều ưu điểm như “người ta là hoa đất”, “đất có thổ công sông có hà bá”, “tình làng nghĩa xóm”, “bán chị em xa mua láng giềng gần”, “lệnh vua thua lệ làng”; có “thành hoàng làng”, “hương ước làng”, “hội làng”, “làng khoa bảng”; nếu người nào có ký ức đậm đà thì cũng là ký ức làng, mấy ai gắn với ký ức phố phường?!

Làng quê Việt là một suối nguồn văn hóa dân gian (folklore), nguồn sữa nuôi dưỡng ca dao, dân ca, truyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết,... Nhưng làng Việt - một không gian văn hóa đặc thù - cũng ẩn chứa nhiều nhược điểm, thể hiện sắc thái “tư duy tiểu nông” của người dân nhiều đời canh tác trên nền văn minh lúa nước trong phên giậu của văn minh sông Hồng. Làng quê Việt còn bị o bế, bảo thủ, tù đọng bởi lễ giáo phong kiến ngàn đời với những hệ quy chiếu đạo đức - tinh thần khắt khe theo Khổng giáo. Làng quê Việt  đậm truyền thống họ tộc, huyết thống bởi “một giọt máu đào hơn ao nước lã”,... Nghĩa là, mỗi đơn vị làng ở Việt thu nhỏ, tập trung trong nó cả xã hội Việt Nam. Nhưng không phải truyền thống nào cũng phù hợp với sự phát triển bền vững, xét theo quan điểm tiến hóa (ví như “một người làm quan cả họ được nhờ”).

Có hàng trăm định nghĩa về văn hóa, song có một định nghĩa ngắn gọn, cô đúc nhất “Văn hóa là cách sống cùng nhau”. Vì thế, khảo sát văn hóa làng Việt bằng văn chương chính là qua cách sống, cách ứng xử giữa những con người cùng máu đỏ da vàng, cùng không gian sinh tồn “làng tôi xanh bóng tre”.

"Trưởng tộc" - câu chuyện văn hóa làng - 3

PGS.TS, nhà văn Phạm Quang Long

Làng Hà trong tiểu thuyết Trưởng tộc rất đặc trưng cho một đơn vị làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đất chật người đông, sinh kế trên cơ sở canh tác nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa. Ấy là nói trong quá khứ. Thời hiện đại thì tình hình có khác khi quá trình đô thị hóa làm thay đổi mạnh mẽ, làm biến dạng nông thôn. Trong thực tế, mỗi thế hệ ứng xử khác nhau với làng. Lớp trẻ sống theo tinh thần hiện sinh, đua nhau bỏ làng đi tìm miền đất hứa nơi chốn phố phường hay nơi đất khách quê người. Ai còn ở lại bám trụ làng thì cũng dan díu với những cuộc tranh đua khi ngấm ngầm khi công khai giữa các họ tộc, huyết thống, gia tộc (nên mới nảy sinh ra cái gọi là Hội đồng Gia tộc, nghe thật râm ran, giòn giã).

Người đọc (lớp nhiều tuổi) hẳn sẽ có nhiều đồng cảm chia sẻ với nhân vật ông Đời họ Võ (Vũ), một công chức nghỉ hưu. Nghĩa là lúc rút lui vào tổ ấm của mình, biết buông bỏ để sống thanh thản thời gian còn lại không lấy gì làm dư dật. Sở dĩ tôi dẫn chứng và tập trung phân tích nhân vật này vì lý do trong tiểu thuyết có nhiều nhân vật, đan chéo nhiều quan hệ chằng chịt với nhiều nguyên nhân và hệ quả phức tạp. Nhưng nhân vật ông Võ Trần Đời xuất hiện từ đầu đến cuối (trong 33 chương).

Có vẻ như ông thuộc phái bảo thủ, cả trong mắt vợ, cả trong mắt thiên hạ. Nhưng ông cứ một mình một ngựa, lối cũ ta về. Ông không phải kiểu người mũ ni che tai. Ông biết hết thiên hạ (ở trong cái làng Hà) đang náo loạn (may là chưa đến mức đại loạn). Già hay trẻ, sang hay hèn, họ tộc “hùng mạnh” hay lép về đều bị cuốn vào cái guồng quay danh và thực. Có lẽ chưa đến mức “quần ngư tranh thực”, hay thậm chí “sống mái”, “bất cộng đới thiên” với nhau nhưng xem ra cũng không kém phần cam go, quyết liệt trong tranh giành địa vị vật chất cũng như tinh thần trong một không gian sinh tồn mặc định. Cũng như bất cứ người nào thoát ly làng đi làm ăn sinh sống xa cố cư, lại nếu là người làm công ăn lương nhà nước, rồi do tiếp xúc, va chạm, cọ xát nhiều thì cơ may có được cái “viễn kiến” nhìn đời, nhìn người, nhìn việc xa hơn cái lỗ mũi.

Ở làng Việt, ta thường thấy có việc “dồn điền đổi thửa”, mới nghe có vẻ nằm trong quy hoạch đất đai, song trong con mắt của nhân vật Nghi (cựu chiến binh, cũng lõi đời) thì “Người ta đang dàn dựng một âm mưu bài bản mới để bắt tay vào việc dồn điền đổi thửa ở quy mô lớn hơn trước nhiều. Họ nhìn xa lắm. Dồn điền đổi thửa lần này, to thật đấy, quan trọng thật đấy nhưng không phải ở bản thân nó mà ở những kiếm chác quanh việc này”. Vậy là một việc nghe ra rất quan trọng lại cũng chỉ liên quan đến “kiếm chác”. Trên cái nền thực dụng, hiện sinh này, các dòng họ trong làng Hà, mà rộng ra là khắp nơi nơi “Hùn tiền cho người có khả năng ngồi vào một vị trí nào đó để khi đã yên vị rồi người ta sẽ trả công bằng các dự án, bằng đất đai (...). Câu tổng kết “một người làm quan cả họ được nhờ” chưa bao giờ lại hiện hình rõ thế mà cũng thô tục thế”. Rõ ràng như dưới thanh thiên bạch nhật cái gọi là “lợi ích nhóm” đã thấm vào máu người nông dân khi có quyền lực, nên nảy sinh ra “băng nhóm” (bè phái) dựa trên mối quan hệ thân tộc được đảm bảo bằng lợi ích vật chất rõ ràng, cụ thể, sát sườn.

Xuất hiện từ đầu tác phẩm (chương 1), ông Đời hiện diện (tham dự sự kiện đời sống ở làng Hà) đến phút chót (chương 33). Ông là một nhân chứng của cuộc vật đổi sao dời ở làng Hà và dòng tộc họ Võ. Nếu có (giả sử) là “nạn nhân” của cái gọi là “truyền thống” dòng họ, dòng tộc, huyết thống thì ông cũng không thể thoái thác được trách nhiệm là một “tội nhân” để mà sám hối, thiện lương thành “cứu nhân”. Ở chương đoạn kết, bà Lời Trưởng tộc đã chết. Họ hàng con cháu đến thắp hương khấn vái. Ông Đời tỏ rõ là nhân vật quan trọng “Cậu thay mặt gia tộc họ Võ nhận tấm lòng của mẹ con cháu. Chắc rằng gia tộc sẽ một ngày hưng thịnh hơn. (...)

Và sau này, dù sống ở đây hay quê chồng cháu vẫn là con cháu họ Võ. Vì dù sao, trong cháu cũng chảy dòng máu họ Võ. Cháu phải nhớ điều đó”. Người ta thường cầu khấn cho “quốc thái dân an”, ông Đời thì thực tế, thực dụng hơn cầu khấn cho gia tộc ngày một hưng thịnh hơn. Không có gì là không đúng. Nhưng ngẫm nghĩ cứ thấy nó chỉ phù hợp với một thực tại tù túng, tù đọng, không phát triển. Liệu khi “Trái đất là ngôi nhà chung của thế giới”, liệu khi thế giới là thế giới phẳng và mở thì có nên khư khư ôm lấy những hoài niệm về họ tộc, dòng tộc dựa trên huyết thống cận kề?! Liệu khi xuất hiện những thế hệ mới được gọi là công dân toàn cầu tương lai thì sợi dây dòng tộc, huyết thống có còn bền vững?! Câu trả lời không khó tìm ra.

Trưởng tộc và lối kể chuyện tiểu thuyết

Lối kể chuyện của tác giả trong Trưởng tộc, tôi hình dung (qua khảo nghiệm), rất phù hợp với cái thời khi chưa có internet, truyền hình, mạng xã hội, văn hóa nghe nhìn còn rình phục thời cơ ganh đua với văn hóa đọc. Trưởng tộc có lẽ phù hợp hơn với lớp độc giả có tuổi, có thời gian nhàn rỗi, có điều kiện đọc chậm, nhẩn nha, suy ngẫm kỹ càng. Theo tôi, trường hợp và hiện trạng này nên coi là đặc điểm chứ không hẳn là nhược điểm. Tuy vậy, nói thế không có nghĩa là người trẻ không ham đọc kiểu sách này. Tôi đã chứng kiến sinh viên khoa Văn học (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) đã háo hức với buổi ra sách Chuyện phố (tiểu thuyết, Nxb Phụ nữ Việt Nam, 2024); tác phẩm này cũng được tuần báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) giới thiệu là một trong những cuốn sách văn học có nhiều người tìm đọc và ưa thích của năm 2024.

Trưởng tộc ưu trội lối kể chuyện với nhịp điệu (rhythm) chậm, với nhiều tuyến truyện rẽ ngang, xen dọc dựa theo ký ức về làng quê, người quê. Tiểu thuyết dày đặc, ngồn ngộn các chi tiết đời sống sinh động (về âm thanh, màu sắc, đường nét, mùi vị) thể hiện sự am tường thực tế làng Việt (và rộng hơn đến nhiều vùng đất Việt, tại nhiều khoảng hạn thời gian khác nhau) đến từng chân tơ kẽ tóc. Trải nghiệm sống và trải nghiệm văn hóa đã làm bàn đạp để tác giả đi xa, đi bền. Đọc Trưởng tộc, thấy tác giả trung thành với lối kể chuyện “có đầu có đuôi” phát khởi và định hình ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Lạc giữa cõi người (2016). Âu cũng là “tạng người” đã quy định “tạng văn”.

Tin liên quan

Tin mới nhất