Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: RCEP tạo cơ hội, khẳng định vị thế, tiếp thêm sự tự tin cho Việt Nam và ASEAN
Trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN 37, bên lề Lễ ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện Khu vực (RCEP) sáng 15/11, Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh đã chia sẻ ý nghĩa cũng như những tác động của Hiệp định và cam kết của Việt Nam.
Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát gây ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu, làm gián đoạn chuỗi cung ứng, cùng với xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên, việc ký kết Hiệp định RCEP đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam và tất cả các nước thành viên.
Hiệp định RCEP khi được 15 thành viên thực thi sẽ tạo nên một khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới, với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, GDP xấp xỉ 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP và 30% dân số toàn cầu.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Bộ trưởng Trần Tuấn Anh tại lễ ký RCEP. (Ảnh: Nguyễn Hồng)
Bộ trưởng khẳng định, với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hài hòa hóa quy tắc xuất xứ giữa tất cả các bên tham gia, cũng như tăng cường các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, Hiệp định sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực.
"Trước tình hình thế giới đầy biến động gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, Hiệp định RCEP sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định lâu dài cho Việt Nam và các nước ASEAN. Với Việt Nam, Hiệp định RCEP tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu", Bộ trưởng Trần Tuân Anh cho biết.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng nhấn mạnh, việc thực hiện RCEP cũng tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp..., góp phần giúp môi trường thương mại công bằng.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), việc chủ động cải cách, đơn gian hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước. Đặc biệt, với các khung khổ hợp tác mới được đưa ra trong Hiệp định RCEP cùng với các FTA trước đây, Việt Nam cùng một số nước ASEAN đang trở thành điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế. Các lợi ích này thường mang ý nghĩa lâu dài cho nền kinh tế.
Cuối cùng, Bộ trưởng cho rằng, ý nghĩa quan trọng nhất là việc kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định RCEP góp phần đề cao vai trò trung tâm của ASEAN trong quá trình định hình cấu trúc khu vực, do RCEP là liên kết kinh tế khu vực có quy mô lớn nhất mà ASEAN đề xuất, đóng vai trò dẫn dắt và được các nước đối tác ủng hộ.
Những năm gần đây tất cả các nước với vai trò Chủ tịch ASEAN đều đưa ra mục tiêu kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định. Kế thừa kết quả từ những năm trước, Việt Nam và các nước ASEAN đã thuyết phục được các nước đối tác tham gia đồng thuận chung. Điều này cho thấy, dù từng nước có quy mô kinh tế không lớn, nhưng nếu đoàn kết và có tiếng nói chung thì vẫn có thể trở thành một động lực thúc đẩy hợp tác trong khu vực.
Theo đánh giá của các Tổ chức quốc tế, đến nay có hai cơ chế nổi bật trong mô hình hợp tác của toàn bộ khu vực châu Á–Thái Bình Dương, đó là Hiệp định RCEP và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Rất vinh dự cho Việt Nam là cả hai cơ chế này đều được quyết định trong năm Việt Nam là Chủ tịch ASEAN và APEC. Như vậy, có thể nói, Việt Nam đã đóng góp tiếng nói của mình vào việc định hình cho các cơ chế hợp tác mới, cũng như luật chơi của khu vực, tăng cường vị thế của đất nước.
Cơ hội và thách thức song hànhBộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, cơ hội mà RCEP mang lại cũng sẽ song hành với những khó khăn và thách thức. Trước hết, Hiệp định RCEP có thể mang đến sức ép cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam.
Đặc điểm các nền kinh tế trong khu vực RCEP cho thấy, nhiều đối tác có cơ cấu sản phẩm tương tự và năng lực cạnh tranh mạnh hơn Việt Nam, trong khi chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm của Việt Nam còn khiêm tốn. Vì vậy, khi Hiệp định RCEP có hiệu lực thì sức ép cạnh tranh sẽ gia tăng.
Ngoài ra, đầu vào sản xuất của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhất định vào các nguồn nhập khẩu, đặc biệt khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực cũng như mức độ tham gia cung cấp thương mại dịch vụ toàn cầu của Việt Nam còn hạn chế.
Tuy nhiên, kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua cho thấy khả năng của Việt Nam tham gia vào các chuỗi giá trị mới thiết lập trong khu vực ngày càng tăng lên cùng với việc đổi mới mạnh mẽ về thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và cải thiện môi trường đầu tư.
Hiệp định RCEP được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của tất cả các nước tham gia, đặc biệt phù hợp với cả một số nước ASEAN kém phát triển hơn. Do vậy, mặc dù không gian kinh tế rộng và dân số lớn, nhưng Hiệp định RCEP đã có nhiều linh hoạt cho các nước tham gia. Các nước tham gia RCEP cũng xác định đây là bước đi ban đầu, hướng đến các mức độ hợp tác cao hơn khi các nước đã sẵn sàng.
Nhìn chung, Việt Nam đạt được mức độ cam kết hài hòa trong Hiệp định RCEP, có cao hơn các FTA ASEAN+ hiện có, nhưng thấp hơn các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia.
RCEP không tạo ra cú sốc về thuế quan với Việt NamVề phía Việt Nam, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, trong suốt quá trình đàm phán Hiệp định RCEP, Việt Nam đều tham vấn chặt chẽ các bộ, ngành liên quan và cộng đồng doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu kết quả đàm phán phải đảm bảo lợi ích cao nhất của Việt Nam.
Thực tế, Việt Nam cùng các thành viên ASEAN và 5 nước đối tác trong RCEP đã có chung các hiệp định FTA, cụ thể là Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các FTA giữa ASEAN với từng đối tác trong số 5 đối tác trên (gọi là các hiệp định FTA ASEAN+1).
Quá trình tự do hoá thuế quan với các nước ASEAN đã được thực hiện trong suốt hơn 20 năm qua, với 5 nước đối tác trên trong khoảng 15 năm. Vì vậy, việc thực hiện RCEP sau khi được thông qua sẽ không tạo ra cú sốc về giảm thuế quan đối với Việt Nam. Hơn nữa, Hiệp định RCEP về cơ bản là thỏa thuận mang tính kết nối các cam kết đã có của ASEAN với 5 đối tác trong một Hiệp định FTA.
Chẳng hạn như doanh nghiệp chỉ phải sử dụng một quy tắc xuất xứ thay vì năm bộ quy tắc xuất xứ riêng ở các FTA trước đây. Tương tự, các quy tắc về thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại cũng được thống nhất và tăng cường.
Do đó, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định, về cơ bản sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường hay áp lực cạnh tranh mới mà chủ yếu hướng đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, Việt Nam không quá lo ngại về khả năng tăng nhập siêu. Không những thế, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên sẽ có nhiều cơ hội tham gia các chuỗi cung ứng mới do Hiệp định RCEP tạo ra, nếu có thể khai tác triệt để lợi ích do Hiệp định này mang lại.
Theo Báo quốc tếBình luận