Các nhà văn quân đội với dấu ấn phim chiến tranh sau dấu mốc 1975

Chúng ta đã có độ lùi 50 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975 - 2025) với sự trưởng thành toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội trong đó có văn học nghệ thuật. Đối với ngành điện ảnh, đã có nhiều thành tựu, dấu ấn phim chiến tranh của Việt Nam kể từ dấu mốc 1975 đến nay đã được tổng kết, đánh giá một cách khách quan, khoa học. Tiêu biểu trong đó là 22 bộ phim vừa được trình chiếu trong Liên hoan phim Châu Á Đà Nẵng lần thứ 3. Đây chắc chắn là một dấu mốc quan trọng của ngành điện ảnh trong sự quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, nhất là phim về chiến tranh của Việt Nam.

Một điều đặc biệt khác, đó là, sự hiện diện, gắn bó chặt chẽ của các nhà văn quân đội công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội với dấu ấn phim về chiến tranh của Việt Nam sau dấu mốc 1975 khá đậm đặc. Đây cũng là vai trò và nền tảng, sự liên thông sâu sắc giữa văn học và điện ảnh. Tính tiên phong của văn học trong điện ảnh. Sự cần thiết phải phối hợp chặt chẽ giữa các tác giả, tác phẩm văn học với điện ảnh. 

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ dẫn ra một số tác giả, tác phẩm cụ thể, đồng thời phân tích làm rõ thêm về tầm vóc, ý nghĩa, dấu ấn phim chiến tranh của Việt Nam từ dấu mốc 1975 gắn với các nhà văn công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Đây cũng là sự đánh giá, ghi nhận, thống kê cần thiết đối với văn học và điện ảnh đề tài chiến tranh - một mảng đề tài lớn của văn học nghệ thuật Việt Nam.

Các nhà văn quân đội với dấu ấn phim chiến tranh sau dấu mốc 1975 - 1

Các nhà văn tại trụ sở Tạp chí Văn nghệ Quân đội sau năm 1975.

Nhà văn Nguyễn Thi - Nguyễn Ngọc Tấn

Với bộ phim Mẹ vắng nhà sản xuất năm 1980 được chuyển thể từ tiểu thuyết Người mẹ cầm súng của nhà văn Nguyễn Thi, có lẽ đây là dấu ấn đầu tiên của nhà văn quân đội với điện ảnh sau dấu mốc 1975. Nhân vật chị Út Tịch và năm đứa con nhỏ với câu nói nổi tiếng “còn cái lai quần cũng đánh” giữa những ngày đánh Mỹ ác liệt đã trở thành hình ảnh biểu tượng của quân và dân miền Nam. Nhà văn Nguyễn Thi vào chiến trường rất sớm, từ năm 1962 ông đã vượt rừng Trường Sơn vào Đông Nam Bộ cầm súng và cầm bút để cho ra đời hàng loạt tác phẩm mà tiêu biểu nhất phải kể đến Người mẹ cầm súng mà nhân vật chính là chị Út Tịch đã trở thành huyền thoại, biểu tượng của người chiến sĩ miền Nam trong đánh Mỹ.

Các nhà văn quân đội với dấu ấn phim chiến tranh sau dấu mốc 1975 - 2

Nhà văn Nguyễn Thi

Ông đã anh dũng hy sinh tại chân cầu chữ Y trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Khi tác phẩm điện ảnh Mẹ vắng nhà đến với công chúng, nhà văn Nguyễn Thi đã đi xa. Song, tinh thần tác phẩm của ông đã được thể hiện trọn vẹn trong Mẹ vắng nhà. Chính từ nền tảng, bối cảnh, tư tưởng của tiểu thuyết Người mẹ cầm súng, thông qua lăng kính điện ảnh đã chuyển tải những thông điệp hết sức sâu sắc về chiến tranh.

Từ bối cảnh năm đứa con nhỏ của chị Út Tịch, đứa lớn nhất mới mười tuổi, đứa bé nhất còn nằm nôi phải tự chăm sóc nhau trong cuộc chiến để người mẹ là nữ du kích đi đánh giặc đã toát lên tinh thần và nghị lực, chiều sâu sự thật và tính nhân văn sâu sắc của một tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm văn học. Vai trò của nhà văn, của văn học đã góp phần quan trọng cho sự thành công của điện ảnh mà Người mẹ cầm súng của nhà văn Nguyễn Thi là một ví dụ điển hình.

Nhà thơ Phùng Quán 

Bộ phim Tuổi thơ dữ dội sản xuất năm 1989 được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà thơ Phùng Quán. Tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội đã được trao giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. Phim kể về hành trình, hoạt động của các thiếu niên gia nhập Đội Thiếu niên trinh sát thuộc Trung đoàn Trần Cao Vân - Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Những cậu thiếu niên tuổi nhỏ nhưng vô cũng can đảm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, không tiếc xương máu của mình với những chiến công đã được ghi vào sử sách một thời. Bộ phim vừa chân thực vừa sinh động là thông điệp lớn, sâu sắc về chiến tranh.

Các nhà văn quân đội với dấu ấn phim chiến tranh sau dấu mốc 1975 - 3

Nhà thơ Phùng Quán

Nhà thơ Phùng Quán viết bộ tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội rất công phu từ những gì ông trực tiếp trải nghiệm. Cuộc sống, chiến đấu của các thiếu niên trinh sát thuộc Trung đoàn Trần Cao Vân cũng chính là cuộc sống mà ông từng trải qua với những chuyển biến dữ dội không chỉ ở bên ngoài mà cả nhận thức bên trong của một nhà văn được thực tiễn cuộc đời, thực tiễn chiến tranh là người thầy dạy. Nội dung phim và nội dung tiểu thuyết đã hòa quyện một cách nhuần nhuyễn, có tính biểu tượng, tính khái quát cao.

Chất văn học đằm sâu trong tiểu thuyết là một trong những nền tảng để bộ phim điện ảnh Tuổi thơ dữ dội có sức lan tỏa tới hôm nay. Đây cũng là một trong những dấu ấn quan trọng của phim điện ảnh về đề tài chiến tranh cách mạng của Việt Nam sau dấu mốc 1975. Sinh thời, nhà thơ Phùng Quán đã hết sức trân trọng các nhà điện ảnh khi thực hiện bộ phim trên từ tiểu thuyết của ông. Dấu mốc năm 1989 khi bộ phim ra đời cũng là dấu mốc nhà thơ Phùng Quán dần được công khai trở lại văn đàn vì trước đó ông đã từng bị liên lụy trong Nhân văn giai phẩm.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu

Bộ phim điện ảnh Người đàn bà mộng du sản xuất năm 2005 được chuyển thể từ truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Truyện phim với hai nhân vật chính là Qùy - một nữ chiến sĩ quân y trên tuyến đường Trường Sơn và Hòa - một Trung đoàn trưởng dũng cảm (sau anh hy sinh trong một trận chiến). Nhân vật thứ ba là Phiên - bạn của Hòa luôn dành tình yêu của mình với Quỳ nhưng dù thế nào Qùy vẫn không quên được quá khứ. Câu chuyện phim được bắt đầu với những khung hình và bối cảnh của những vùng đất cỗi cằn sau chiến tranh. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành không chỉ có những trang văn đẹp mà sự chuyển động tâm lý từ bên trong luôn hết sức dữ dội, thẳm sâu chính là vùng đất màu mỡ để các nhà làm điện ảnh khai thác.

Các nhà văn quân đội với dấu ấn phim chiến tranh sau dấu mốc 1975 - 4

 Nhà văn Nguyễn Minh Châu

Bộ phim điện ảnh Người đàn bà mộng du đã cho thấy phim về chiến tranh ở Việt Nam không chỉ đơn thuần ca ngợi một chiều ta thắng địch thua mà đã đi sâu vào bản thể bên trong của con người, nhất là con người trong và sau chiến tranh. Vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn trong các trang văn của Nguyễn Minh Châu đã được các nhà điện ảnh khai thác rất hiệu quả. Văn chương và điện ảnh đều gặp nhau ở chỗ thể hiện và tôn vinh những giá trị đích thực, cái chân, thiện, mỹ là những trụ cột làm nên giá trị các tác phẩm văn học nghệ thuật.

Nhà văn Chu Lai

Nhà văn Chu Lai có lẽ là nhà văn có nhiều tác phẩm tiểu thuyết được chuyển thể thành các bộ phim điện ảnh nhất. Đó là bộ phim Người đi tìm dĩ vãng chuyển thể từ tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng; các tiểu thuyết Phố; Ba lần và một lần; Tiếng cồng định mệnh… và gần đây nhất là Mưa đỏ của Chu Lai đều được các nhà điện ảnh chuyển thể thành phim rất thành công. Điều gì làm nên sự thành công đó? Trước tiên, đó chính là thực tiễn chiến tranh, những chiêm nghiệm của người trong cuộc đã tạo dựng lên những chi tiết, tâm lý, bối cảnh hết sức trung thực.

Các nhà văn quân đội với dấu ấn phim chiến tranh sau dấu mốc 1975 - 5

Nhà văn Chu Lai

Là một người lính chiến trực tiếp cầm súng, nhà văn Chu Lai đã có lợi thế rất lớn khi viết các tác phẩm văn học về chiến tranh. Ông từng tâm sự: “Chiến tranh là một đề tài càng đào sâu càng màu mỡ, càng khai thác càng phì nhiêu, càng lùi ra xa thì trầm tích của chiến tranh càng dội về mãnh liệt. Có một điều hết sức diệu kỳ là chiến tranh không là cái gì nếu không có một nền tình yêu đằng sau được nổi lên ở những trang viết về tình yêu trận mạc, luận về anh hùng”. 

Sự thành công của các bộ phim điện ảnh chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai đã cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa văn học và điện ảnh. Trên thế giới, kể từ ngày có bộ môn nghệ thuật thứ bảy, tất cả các tác phẩm điện ảnh lớn, về cơ bản đều được hình thành và thăng hoa từ các tác phẩm văn học.

Nhà văn Xuân Thiều

Tôi đã rất ấn tượng khi xem phim Truyền thuyết về Quán Tiên được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Xuân Thiều - nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Bộ phim là một lát cắt chiến tranh dưới góc nhìn sâu sắc, nhân văn và độc đáo đã cho thấy cuộc sống trong chiến tranh vẫn còn nhiều điều phải đặt ra, phải lý giải, phải cắt nghĩa và giải quyết một cách trọn vẹn. Các nhân vật nữ thanh niên xung phong trong Truyền thuyết về Quán Tiên đã cho thấy những vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn người phụ nữ Việt Nam, trách nhiệm công dân trước đòi hỏi hy sinh của Tổ quốc. Thế mạnh của điện ảnh đã được thể hiện, được khai thác tối đa tạo hiệu ứng nghệ thuật để người xem có những xúc cảm thẩm mỹ rộng mở, những liên tưởng chiều sâu về các tình tiết trong chiến tranh, thực tiễn của chiến tranh.

Các nhà văn quân đội với dấu ấn phim chiến tranh sau dấu mốc 1975 - 6

Nhà văn Xuân Thiều

Truyền thuyết về Quán Tiên cũng cho thấy nền tảng từ các tác phẩm văn học viết về chiến tranh là hết sức quan trọng đối với các tác phẩm điện ảnh về đề tài này. Khi xem kỹ bộ phim, chúng tôi luôn cảm nhận được chất thơ, chất văn học trong mỗi cảnh quay, trong từng mạch truyện phim. Chính điều này đã tạo nên dấu ấn của bộ phim.

Nhà văn Lê Lựu

Nhà văn Lê Lựu là một trong những nhà văn có những tác phẩm quan trọng được chuyển thể thành các bộ phim điện ảnh, truyền hình sau dấu mốc 1975, nhất là sau dấu mốc Đổi mới 1986. Bộ phim Thời xa vắng về đề tài hậu chiến đã cho thấy mảng đề tài phim về chiến tranh đã có sự chuyển động mạnh mẽ, sự chuyển đổi trạng thái sang hướng đời sống xã hội với những đặc tính của nó. Các vấn đề về thói quan liêu, sự lạc hậu, sự chủ quan khinh suất khi chuyển đổi cuộc sống càng cho thấy ám ảnh và hậu quả của chiến tranh là rất lớn. Thời xa vắng là một tác phẩm điện ảnh quan trọng, một dấu mốc trong văn chương của nhà văn Lê Lựu và điện ảnh Việt Nam trên tinh thần của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói đúng sự thật” là một điều rất cần thiết trong các hoạt động văn học nghệ thuật trong đó có văn học và điện ảnh. Nhà văn Lê Lựu cũng là một trong những nhà văn hàng đầu của Tạp chí Văn nghệ Quân đội với hàng loạt tiểu thuyết về chiến tranh và đề tài hậu chiến. Các tiểu thuyết của Lê Lựu luôn rất hấp dẫn các nhà điện ảnh mà tiêu biểu nhất phải kể đến: Thời xa vắng; Sóng ở đáy sông.

Các nhà văn quân đội với dấu ấn phim chiến tranh sau dấu mốc 1975 - 7

Nhà văn Lê Lựu

Chúng ta còn nhiều bộ phim về chiến tranh gây ấn tượng sau dấu mốc 1975 như: Cánh đồng hoang (1979); Mối tình đầu (1980); Về nơi gió cát (1983); Huyền thoại về người mẹ (1987); Truyện cổ tích cho tuổi 17 (1988); Ngã ba Đồng Lộc (1997); Vào Nam ra Bắc (2000); Hà Nội 12 ngày đêm (2002); Giải phóng Sài Gòn (2005); Mùi cỏ cháy (2011); Người trở về (2015);… đã góp phần tạo nên bản giao hưởng lớn về phim chiến tranh Việt Nam đã cho chúng ta sự cảm nhận và ấn tượng sâu sắc. 

Những phim điện ảnh về chiến tranh Việt Nam sau dấu mốc 1975 trên nền tảng văn học mà chúng tôi vừa trình bày một số gương mặt nhà văn tiêu biểu Tạp chí Văn nghệ Quân đội: Nguyễn Thi - Nguyễn Ngọc Tấn; Phùng Quán; Nguyễn Minh Châu; Chu Lai; Xuân Thiều; Lê Lựu đã cho thấy hiệu quả và chất lượng từ sự liên thông giữa văn học và điện ảnh để có thể phản ánh chiến tranh ở độ khái quát cao, cuộc chiến đấu anh dũng, sự hy sinh lớn, những kết tinh về triết lý - đạo lý của con người Việt Nam trong cuộc chiến tranh chính nghĩa giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Dấu ấn phim chiến tranh của Việt Nam sau dấu mốc 1975 là những ghi nhận, đón nhận của nhân dân, bạn bè quốc tế, các giải thưởng trong nước và quốc tế của ngành điện ảnh Việt Nam với dòng phim về chiến tranh. Đây cũng là những thông điệp quan trọng, mạnh mẽ của Việt Nam trên trường quốc tế để chúng ta có thêm cơ sở và nền tảng bước vào kỷ nguyên mới, hội nhập sâu rộng, tiếp tục tạo vị thế của đất nước Việt Nam.  

Có thể khẳng định rằng, dấu ấn phim chiến tranh của Việt Nam sau dấu mốc 1975 vừa là dòng chủ lưu của điện ảnh Việt Nam đồng thời là những đóng góp tiêu biểu của nghệ thuật thứ bảy trong quá trình làm giàu bản sắc văn hóa Việt Nam, tâm hồn con người Việt Nam trong sự vận động, trưởng thành. Những kết quả đó có được chính là sự quan tâm sâu sắc của Đảng ta, sự động viên, tin tưởng to lớn của nhân dân với ngành điện ảnh nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung. Trong những thành tựu và dấu ấn ấy, với dòng phim chiến tranh của Việt Nam sau dấu mốc 1975, luôn có sự đóng góp mang tính nền tảng, chủ chốt, quan trọng của các nhà văn trong đó có nhà văn Tạp chí Văn nghệ Quân đội với những sáng tác tiêu biểu nhất của mình. Điều đó đã cho thấy sự liên thông, tính liên ngành, tinh thần lao động sáng tạo văn học nghệ thuật cùng hướng về phục vụ nhân dân và Tổ quốc giữa văn học và điện ảnh luôn đồng nhất. Đây chính là sự trưởng thành bền vững và đáng tự hào của văn học và điện ảnh trong thời đại Hồ Chí Minh.

Phùng Văn Khai

Tin liên quan

Tin mới nhất

Hé lộ nữ vận động viên kiếm tiền giỏi nhất thế giới năm 2025

Hé lộ nữ vận động viên kiếm tiền giỏi nhất thế giới năm 2025

Năm 2025 đánh dấu một cột mốc quan trọng của thể thao nữ toàn cầu. Theo xếp hạng của Forbes, 20 nữ vận động viên có thu nhập cao nhất thế giới đã thu về tổng cộng 293 triệu USD, tăng 13% so với năm trước. Không chỉ tiền thưởng thi đấu tăng mạnh, dòng tiền từ quảng cáo, bản quyền và các mô hình giải đấu mới đang tạo ra một “cú bứt tốc” hiếm thấy trong lịch sử thể thao nữ.