Đi tìm các tác phẩm kinh điển được chuyển thể điện ảnh nhiều lần trong văn học Pháp
(Arttimes) - Nhân Tuần lễ “Từ trang sách đến màn ảnh”, tọa đàm "Đi tìm các tác phẩm kinh điển được chuyển thể điện ảnh nhiều lần trong văn học Pháp" được tổ chức bởi Nhã Nam và Viện Pháp tại Hà Nội sẽ lý giải phần nào hiện tượng văn học - điện ảnh thú vị này.
Ngành công nghiệp điện ảnh luôn muốn những chủ đề vừa độc đáo lại vừa hấp dẫn số đông, nên đương nhiên không thể bỏ qua kho tàng văn chương rộng lớn, lựa ra từ đó các tác phẩm có thể tạo nên những bộ phim đình đám. Tờ Figaro (Pháp) đã đưa ra kết luận: “Cứ 5 phim lại có 1 chuyển thể từ sách!”
Chính vì vậy mà có những tác phẩm văn chương, nhất là các tác phẩm văn chương kinh điển, đã được chuyển thể nhiều lần, mỗi lần là một góc nhìn mới, một cách tiếp cận mới, mang lại cho chính tác phẩm đó một cuộc đời mới và thành công mới. Trà hoa nữ của Alexandre Dumas con, hay Mai Nương Lệ Cốt của Abbé Prévost đều là những cái tên có thể liệt được vào danh sách các tác phẩm kinh điển được chuyển thể điện ảnh ít nhất 10 lần.
Từ tọa đàm "Đi tìm các tác phẩm kinh điển được chuyển thể điện ảnh nhiều lần trong văn học Pháp" điểm qua một vài tác phẩm văn chương kinh điển Pháp đã được chuyển thể điện ảnh nhiều lần như:
Hoàng hậu Margot, Dumas
Hoàng hậu Margot của Alexandre Dumas xuất bản năm 1845. Dumas đã khéo léo đưa vào tác phẩm những âm mưu cung đình, vụ ám sát đô đốc de Coligny, cuộc thảm sát Saint-Barthélemy, mối diễm tình giữa Hoàng hậu de Navarre và Bá tước de la Mole cũng như tập quán tra tấn thời Phục Hưng.
Hoàng hậu Margot của DumasDumas từng kết hợp với Auguste Maquet chuyển thể tác phẩm này thành kịch với sự tham gia của các diễn viên gạo cội như Étienne Mélingue (trong vai Henri de Navarre), Marguerite Lacressonnière (trong vai Marguerite), Philibert Rouvière (trong vai Charles IX). Vở kịch 5 hồi, 13 hoạt cảnh, mang tên Hoàng hậu Margot, được trình diễn lần đầu nhân dịp khánh thành Nhà hát Lịch sử, nhà hát của Dumas (nay đã trở thành Nhà hát Thành phố), vào ngày 20 tháng Hai 1847 và kéo dài 9 giờ đồng hồ.
Tác phẩm cũng được chuyển thể điện ảnh rất nhiều lần: . Năm 1910 được Camille de Morlhon chuyển thể; . Năm 1914 được Henri Desfontaines chuyển thể; . Năm 1954 được Jean Dréville chuyển thể; . Năm 1994 được Patrice Chéreau chuyển thể, lấy cảm hứng quan trọng từ vở kịch Vụ thảm sát ở Paris (1593) của nhà soạn kịch người Anh Christopher Marlowe. Phim này được quay cả ở Pháp và Bồ Đào Nha trong hơn sáu tháng vào năm 1993. Bất chấp việc bị giới phê bình “chê nhẹ” phim cường điệu và kịch, phim vẫn thu hút được hơn hai triệu khán giả tại các phòng chiếu ở Pháp trong năm 1994 và trở thành bộ phim thành công nhất của đạo diễn Chéreau. Tại Liên hoan phim Cannes, phim đã giành Giải thưởng Ban giám khảo và Nữ chính xuất sắc nhất cho diễn viên Virna Lisi trong vai Catherine de Médicis. Với mười hai đề cử trong Liên hoan phim César lần thứ hai mươi, phim từng giành được năm giải.
Trà hoa nữ, Dumas con
Trà hoa nữ được Alexandre Dumas con viết vào năm 1848, nói về câu chuyện tình của một thanh niên tư sản, Armand Duval, và một kỹ nữ, Marguerite Gautier, vốn mắc bệnh lao. Nàng có thói quen cài hoa trà nhiều màu trên ngực (trắng khi nàng sẵn sàng dâng hiến cho người tình, đỏ khi nàng không sẵn sàng). Tác phẩm được kể theo lối truyện trong truyện, bởi Armand Duval thuật lại cuộc phiêu lưu của mình cho người kể chuyện đầu tiểu thuyết. Câu chuyện về Marguerite Gautier, cô gái thượng lưu nửa mùa với số phận bi thảm, chưa bao giờ ngừng tạo cảm hứng cho nghệ thuật. Nhạc kịch, với tác phẩm trứ danh La Traviata của Giuseppe Verdi vào năm 1853, kịch, ba lê và cả điện ảnh với trên dưới hai mươi phim chuyển thể.
Trà hoa nữ của Dumas conCó điều, phần lớn các chuyển thể điện ảnh của Trà hoa nữ lại ưu tiên lối kể chuyện tuyến tính. Chẳng hạn trong bộ phim do Ray C. Smallwood chuyển thể vào năm 1921, bộ phim mở đầu trực tiếp ở nhà hát, nơi hai nhân vật chính gặp nhau. Đoạn cuối, khi Marguerite hấp hối trên giường, đạo diễn có cho quay ngược thời gian nhưng kỹ thuật sử dụng giống như công cụ gây cảm xúc lâm ly hơn là nhắm đến mục đích kể chuyện như trong ba lê hay tiểu thuyết khi để nữ chính hồi tưởng lại những ký ức hạnh phúc bên Armand.
Đến năm 2001, dưới “vỏ bọc” là một phim chuyển thể tự do, Cối xay gió đỏ của Baz Luhrmann mới có kịch bản dường như là trung thành nhất với nội dung cuốn sách, đặc biệt trong cấu tứ: Christian trong Cối xay gió đỏ khóc thương cho cái chết của người con gái mình yêu và thứ khiến anh ta đắm chìm trong quá khứ chính là một món đồ (cái máy chữ). Bộ phim được đề cử sáu giải Oscar, trong đó có giải Phim Xuất sắc nhất và Nữ chính xuất sắc nhất cho diễn viên gạo cội Nicole Kidman; và giành về hai giải thưởng phụ là Đạo diễn Nghệ thuật và Phục trang, trở thành phim ca nhạc đầu tiên trong vòng mười năm được đề cử Oscar, sau Người đẹp và Quái thú năm 1991.
Có thể nói, dẫu được chuyển thể ở bất cứ thể loại nào hay cấu tứ có ra sao, thì mỗi tác phẩm chuyển thể của Trà hoa nữ đều cùng thể hiện rõ ràng mong muốn biến Marguerite Gautier thành nhân vật nữ chính dễ tổn thương ngay khi mọi thú vui trần tục lùi xa, với số phận bi ai chạm sâu tới trái tim cả người đọc và người xem, cho tới tận ngày nay.
Mai Nương Lệ Cốt, Thầy dòng Prévost
Chuyện về chàng kỵ sĩ des Grieux và nàng Mai Nương Lệ Cốt, hay thường được biết đến dưới tên gọi chung là Mai Nương Lệ Cốt, là tiểu thuyết - hồi ký của thầy dòng Prévost. Vì cuốn sách từng hai lần gây tai tiếng (1733 và 1735), bị tịch thu và kết án thiêu hủy, nên vào năm 1753, tác giả của nó đã cho ra mắt một ấn bản Mai Nương Lệ Cốt mới được chỉnh sửa lại và thêm vào một chương quan trọng. Các phẩm chất con người trong cuốn tiểu thuyết nhanh chóng thu hút công chúng và tạo nên danh tiếng cho nó.
Mai Nương Lệ Cốt, Thầy dòng PrévostCứ lần lượt ngày qua ngày, từ giàu sang đến khốn khổ, từ phòng khách sang trọng đến ngục tù, từ Paris đến nơi đày ải, từ lưu vong đến chết chóc, des Grieux và Mai Nương chỉ có một duyên cớ duy nhất: tình yêu, thứ tình cảm khiến người ta quên đi rằng đôi nhân vật này từng dối trá và trộm cắp, rằng chàng thì gian trá và giết người còn nàng thì làm đĩ.
Chính bởi vậy mà ít lâu sau khi tác phẩm được xuất bản, Montesquieu mới hiểu vì sao nó lại thành công tới vậy: “Tôi đọc Mai Nương Lệ Cốt của thầy dòng Prévost vào ngày 16 tháng Tư 1734. Tôi không ngạc nhiên khi cuốn tiểu thuyết này, với nam chính là một kẻ bất lương còn nữ chính là một gái điếm bị dẫn giải đến Salpêtrière, lại khiến độc giả yêu thích, bởi toàn bộ hành động của nam chính, chàng kỵ sĩ des Grieux, đều có động lực là tình yêu, vốn luôn là một động lực cao quý, dẫu hạnh kiểm có hèn thấp thế nào.”
Một số lần chuyển thể điện ảnh của tác phẩm Mai Nương Lệ Cốt: 1912 – Mai Nương Lệ Cốt, phim Pháp của đạo diễn Albert Capellani 1914 - Mai Nương Lệ Cốt, phim Mỹ của đạo diễn Herbert Hall Winslow 1918 - Mai Nương Lệ Cốt, phim Ý của đạo diễn Mario Gargiulo
1926 - Mai Nương Lệ Cốt, phim Đức của đạo diễn Arthur Robison, thể hiện chặt chẽ, cay đắng và dữ dội tiểu thuyết của thầy dòng Prévost, với một Mai Nương bất ổn và đáng thương (Lya de Putti, người phụ nữ định mệnh trong « Variété » của E. A. Dupont), bị kết án đày ải. Quá trình quay phim diễn ra tại các xưởng phim Ufa ở Babelsberg và Berlin-Tembelhof, với bối cảnh trang trí và trang phục hết sức hoành tráng, được báo chí ca ngợi vì quá sống động và chân thực.
1927 – Cuốn tiểu thuyết của Mai Nương, phim Mỹ của đạo diễn Alan Crosland, một trong những sản phẩm đầu tiên của Vitaphone (hiệu ứng âm thanh, nhạc), lấp lánh về mặt thị giác (trang trí sân khấu hoành tráng bởi Ben Carré, ảnh chụp của Byron Haskin) và được tôn lên nhờ phép mầu nhiệm từ lối diễn xuất của hai ngôi sao kịch câm vĩ đại cũng là vợ chồng ngoài đời thực. Tuy nhiên, bộ phim có nhiều chi tiết được Bess Meredith cải biên khá phóng khoáng so với cuốn tiểu thuyết (thầy dòng Prévost thậm chí còn không được nhắc đến trong phần giới thiệu chung): Mai Nương bị anh trai là André lừa và tin rằng cảnh sát đang truy lùng des Grieux, một thầy dòng tập sự trẻ tuổi, và tin là mình cứu được chàng bằng cách trú ẩn ở nhà tay bá tước de Morfontaine dâm đãng người nhanh chóng lấy kim cương mua chuộc nàng.
1940 : Mai Nương Lệ Cốt, phim Ý của đạo diễn Carmine Gallone với sự tham gia của Alida Valli và Vittorio De Sica, Carmine Gallone là người đầu tiên để Valli xuất hiện trong phục trang cổ, một diva gây xúc động và tỏa sáng rực rỡ trên màn ảnh. Mười bốn năm sau đó sẽ còn nhớ tới nàng Mai Nương tâm lý phức tạp, bao quanh mình một ánh hào quang bí ẩn này. Một bản chuyển thể tương đối trung thành với tiểu thuyết, mềm mại uyển chuyển, được Anchise Brizzi chụp lại những bức hình tuyệt đẹp ở Cinecittà và đi kèm là chất nhạc opera của Giacomo Puccini.
1949 – Mai Nương, phim của đạo diễn Henri-Georges Clouzot, chuyển thể hiện đại có kết cục diễn ra trên hoang mạc Palestine. Tháng Sáu năm 1944, tại Normandie, một nhà kháng chiến người Pháp đã cứu Mai Nương, một cô gái phi đạo đức bị kết tội hợp tác với quân Đức. Một bộ phim cuốn hút và táo bạo của Clouzot. 1954 – Tình yêu của Mai Nương Lệ Cốt, phim Ý của đạo diễn Mario Costa , một sản phẩm đồng sản xuất tại Eastmancolor, không có gì nổi bật và nhanh chóng bị lãng quên bất chấp diễn xuất của cô đào xinh đẹp Miriam Bru.
1968 – Mai Nương 70, phim Pháp của đạo diễn Jean Aurel avec Catherine Deneuve, bản chuyển thể hiện đại nhưng không đạt: là phóng viên kênh Europe 1, des Grieux gặp Mai Nương trên một chuyến bay.
1981 – Mai Nương, phim Nhật của đạo diễn Yōichi Higashi.
Thằng Cười, Hugo
Thằng Cười là cuốn tiểu thuyết triết học của Victor Hugo, xuất bản tháng Tư 1869 với câu chuyện diễn ra ở nước Anh cuối thế kỷ mười bảy đầu thế kỷ mười tám. Tác phẩm đặc biệt nổi tiếng với gương mặt bị cắt xẻ thành nụ cười thường trực của nam chính, vốn là nguồn cảm hứng mãnh liệt cho cả giới văn chương lẫn điện ảnh.
Thằng Cười, HugoKhi mới ra mắt, cuốn sách bị coi là một thất bại. Trên tờ Revue moderne, Frédéric Lock từng đưa ra một số nguyên nhân như: thời kỳ xuất bản, dĩ nhiên rồi, song đặc biệt là do chính bản thân tác phẩm, với cốt truyện lãng mạn xúc động, nhưng lại chẳng khác nào bản văn biện hộ chính trị lỗi thời và bản tường trình lịch sử bị cắt xén. Bản thân Victor Hugo cũng thừa nhận thất bại của mình, một phần ông gán nguyên nhân cho việc nhà xuất bản của ông đã quá đầu cơ, phần khác ông tự thấy các mục tiêu mình đặt ra quá đỗi tham vọng: “Tôi từng muốn lạm dụng tiểu thuyết. Tôi từng muốn biến nó thành một bản sử thi. Tôi từng muốn ép buộc độc giả phải suy nghĩ ở mỗi dòng. Từ đó công chúng nảy sinh giận dữ chống lại tôi.”
Tuy nhiên, trên tờ Le Gaulois, Émile Zola lại hết lời ca ngợi tác phẩm: “Thằng Cười đứng trên tất cả những gì Hugo từng viết trong suốt mười năm qua. Trong đó ngự trị một hơi thở siêu nhân.”
Thằng Cười được chuyển thể điện ảnh ba lần. Năm 1928 do Paul Leni đạo diễn với sự tham gia của Conrad Veidt, phim câm, có kết cục khác kết cục trong sách song phần còn lại khá trung thành với tiểu thuyết. Năm 1966 do Sergio Corbucci đạo diễn với sự tham gia của Jean Sorel. Dù được giới thiệu là chuyển thể từ tiểu thuyết của Hugo, bộ phim của Corbucci có mối liên hệ khá mù mờ với nội dung sách. Thực vậy, ngoài việc hành động được di chuyển từ nước Anh những năm 1700 sang nước Ý thời Phục Hưng, phim chứa đựng những biến cố hoàn toàn không xuất hiện trong tiểu thuyết.
Năm 2012 do Jean-Pierre Améris đạo diễn với sự tham gia của các diễn viên gạo cội Gérard Depardieu (Ursus), Emmanuelle Seigner (Josiane) và Marc-André Grondin. Chính vì thuở nhỏ từng xem tác phẩm được chuyển thể truyền hình mà Améris quyết định sẽ đưa tác phẩm lên màn ảnh rộng. Bộ phim của ông được chiếu trong lễ bế mạc Liên hoan Mostra ở Venice năm 2012.
Dẫu chỉ chuyển thể ba lần, song hình ảnh gương mặt bị cắt xẻ thành nụ cười thường trực của nam chính vẫn tạo cảm hứng cho nhiều đạo diễn điện ảnh lừng danh khác. Nó tiếp tục trở lại dưới chiếc mặt nạ của Joker trong Người dơi của Tim Burton (1989) hay Người dơi của Christopher Nolan, của nhân vật Georgie trong Thược dược đen (Brian de Palma, 2006), và của người phụ nữ cười trong Apollonide – Ký ức về nhà chứa (Bertrand Bonnello, 2011), hay thậm chí của cả chàng trai trẻ đồng tính với vết sẹo dài trên mặt trong Tom nơi trang trại (Xavier Dolan, 2013).
Tử Văn
NoneBình luận