“Ngọn Hải Đăng của làng” - Nỗi buồn trước cái đẹp bị tàn phai và niềm khao khát tri âm
Đinh Hạ là một cây bút trẻ nhiều triển vọng. Thời gian qua anh đã có nhiều đóng góp cho văn học nghệ thuật ở mảng tản văn và thơ.
“Mỗi một miền quê, nơi con người sinh ra, lớn lên và đi xa đều có những thứ vô hình để gợi thương gợi nhớ. Đó có thể là lời ru của mẹ, là cánh cò bay trên cánh đồng làng, là bóng dáng cha cần mẫn cùng trâu, là cây đa, giếng nước, mái đình đã thành biểu tượng của làng quê Việt. Kỷ niệm có thể nhạt nhòa trong vòng quay mưu sinh chóng mặt, nhưng rồi một giây phút bất chợt nào đó trên dòng đời tấp nập, con người lại lắng lòng thương nhớ những mùa xa”...
Tập tản văn "Ngọn Hải Đăng của làng".
Đọc những dòng tản văn đẹp mà buồn đến nao lòng này người đọc hình dung Đinh Hạ giống như người đàn ông đứng tuổi, lúc thì ngồi trầm tư bên suối nhỏ, lúc thì ngồi lặng lẽ dưới bóng cây đa, lúc lại ngồi mơ màng bên đống lửa đêm đông bập bùng để mà hoài niệm, để mà nhớ thương. Với 77 mẩu chuyện nhỏ, gần 400 trang viết trong tản văn “Ngọn Hải Đăng của làng”, (NXB Hội Nhà văn, 2023) Đinh Hạ đã thể hiện thành công tiếng nói xót thương, tiếc nuối các giá trị tinh thần cao quý trong quá khứ đã bị phai tàn theo năm tháng và khơi gợi kiếm tìm sự tri âm.
Với tác phẩm “O” tôi khơi mạch cảm xúc cho tập tản văn, ta có thể thấy được khả năng cảm thông vô hạn của tác giả đối với nỗi đau trong cuộc đời, ta nhận ra trạng thái tâm hồn xót xa trước số phận con người tài hoa mà bạc mệnh “O đã cưỡi hạc về trời, thành người thiên cổ đã bao năm. Vậy mà tôi vẫn không thể quên được hình bóng của o nhỏ bé thui thủi nơi góc nhà, không thể quên được lời ru trầm ấm buồn buồn của o trong những chiều mưa”.
Hay trong tác phẩm Mùa Thị, tác giả diễn tả cái phũ phàng của thời gian, sự chảy trôi viên miễn của vũ trụ. Phải chăng lòng người đổi thay khi hoàn cảnh thay đổi?: “Cô Tấm không còn chỗ nương náu nữa đành trở về với cổ tích. Hương mùa thu trong hương thị chín làng quê chỉ còn trong ký ức mờ xa…”.
Tác giả sẵn mối thương tâm từ trong lòng trước khi nhìn vào cảnh vật nên chiếc giếng làng “chiếc nôi đời ngọt lịm lời ru” theo thời gian đã trở thành phế tích trước sự vô tâm tuyệt đối của con người. Náo nhiệt là thế, linh thiêng là thế mà giờ đây giếng nằm lặng lẽ, lọt thỏm trong sự lãng quên “Giếng Đình vẫn nước đầy ăm ắp nhưng đặc quánh rêu xanh. Di tích một thời nằm im lìm như phế tích”. Ta thảng hoặc đôi khi lần tìm kỉ niệm, ra soi bóng mình xuống mặt giếng, thấy lăn tăn bóng sủi vỡ vụn cả kí ức ấu thơ.
Và bao trùm xuyên suốt trong từng tác phẩm là nỗi nhớ thương khắc khoải của nhà văn. Nhớ gánh hàng rong xưa với tiếng rao khó nhọc văng vẳng trên đường làng thanh vắng như vọng về từ dĩ vãng xa xăm; nhớ hình ảnh người đàn ông gầy còm bưng trên tay cả một rổ ổi với hương mùa thu chín lựng, thơm phức ám ảnh tuổi thơ làng quê; nhớ da diết những mùa hoa tàu bay, nhớ cồn cào hương vị Tết xưa, nhớ chiếc chum sành thô mộc thấm đẫm mồ hôi và dấu tay khắc khổ, khó nhọc mà càng để lâu càng bóng màu vun vén, tảo tần của mẹ ngày xưa; nhớ bóng làng mát rượi luỹ tre.
Đặc biệt là nhớ hình ảnh Mẹ ngồi vấn tóc chiều xưa: “Thảng thốt, chiều nay, trong ánh hoàng hôn, trước hiên nhà, mẹ ngồi chải tóc. Con chợt nhận ra mái tóc xưa đã bạc trắng mái đầu… Chợt tiếc nuối, chợt nhớ thương, chợt bâng khuâng hoài niệm về hình ảnh mẹ ngồi vấn tóc chiều xưa”. Thời gian đủ dài, đủ dâu bể để hoá mọi thứ thành hoài niệm. Ta xúc động trước cái tinh tế, cái tài năng của tác giả đã khéo văn chương hoá một hình ảnh giản dị để rồi hình ảnh ấy đã vĩnh cửu hoá cái đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Đinh Hạ đã xâu chuỗi cả quá khứ - hiện tại - và tương lai bằng một dòng cảm xúc chủ đạo đó là nỗi nhớ. Từ nỗi nhớ để nêu bật lên được thái độ trân trọng, nâng niu cái đẹp của tác giả. Mặc dù quá khứ da diết buồn, hiện tại đầy trăn trở, tương lai còn mông lung nhưng tấm lòng của tác giả vẫn đau đáu hy vọng. Tập tản văn này kết đọng niềm trở trăn thao thức, nỗi khắc khoải nhân sinh của một người cầm bút chân chính. Bởi những người biết trân trọng, biết thưởng thức cái đẹp là những người không bao giờ hết hy vọng vào tương lai. Mỗi tiểu phẩm trong tản văn đều kết thúc bằng những câu văn hướng về hậu thế để khơi gợi, kiếm tìm mời gọi sự tri âm “...Nhưng tôi tin khi cánh cò còn bay lả trong ca dao trong lời ru của mẹ, khi gốc đa đầu làng vẫn tỏa bóng xum xuê như ngọn hải đăng dẫn lối,.. thì tình quê hương vẫn mãi đậm đà trong tâm hồn những con người xứ sở” (Tình quê).
Tác giả Đinh Hạ
Có lẽ khát vọng giao cảm là một khát vọng lớn muôn thuở của con người. Nhưng được vang lên trong thời đại này nó bỗng có một âm sắc đặc biệt. Âm sắc của một nỗi niềm da diết, khiến cho người đọc không khỏi cảm thấy nao lòng khắc khoải như có một chút gì từ trăm năm truyền lại. Những câu văn nặng trĩu nỗi niềm. Con thuyền cảm xúc của nhà văn dường như đang trôi dần trong không gian trầm tư lặng lẽ để bơi về miền tươi sáng hơn?
Ở một khía cạnh nào đó, tản văn của Đinh Hạ khơi gợi sự đồng cảm bằng một sự khẳng định dứt khoát về tình người. “Mỗi khi về lại ngôi nhà ấu thơ của mình, nhìn hình bóng bố và dì nương tựa vào nhau trong bóng chiều bên bậu cửa, chị em tôi lại nghèn nghẹn một lời tạ lỗi: Mãi xin được gọi dì bằng tiếng mẹ thiêng liêng”(Xin được gọi dì bằng tiếng mẹ thiêng liêng).
Nhiều khi tâm sự nỗi niềm của nhân vật trữ tình trong tập tản văn này đã đạt tới giá trị kết tinh cao độ, có thể khơi lên nhiều suy nghĩ cảm xúc về phận người và những bi kịch của con người “Giấu đi những nỗi buồn, lau đi giọt nước mắt, chị chấp nhận, an nhiên sống với định mệnh đời mình. Cầu mong sao, với những hi sinh cho gia đình chồng, chị sẽ được đón nhận tình yêu thương, niềm kính trọng và sự chăm sóc của chồng con cho đến hết cuộc đời”.
Quả thật tản văn của Đinh Hạ có giọng điệu đẹp, phù hợp với thẩm mỹ truyền thống. Cảnh đơn sơ, thanh đạm nhưng xinh xắn đáng yêu. Tình không nồng nàn sôi nổi nhưng đằm sâu và lắng đọng. Tản văn của Đinh Hạ dường như là nơi kết tinh vẻ cổ kính, linh thiêng của đền Đức Hoàng hàng trăm năm tuổi, là vẻ lãng mạn, mơ màng nên thơ của đầm sen Diệu ốc – một trong tám cảnh đẹp của Đông Thành nhị huyện xưa kia; là vẻ trầm mặc của phủ thờ Trần Đăng Dinh hiển hách lịch sử; là nét huyền ảo, hoang sơ của lèn Vũ Kỳ với chùa Thiên Tạo… Nhìn chung, tản văn Đinh Hạ dù đang trên đường phát triển nhưng luôn là thành quả kết tinh từ tình yêu của cây bút trẻ đối với mảnh đất này.
Bằng những đóng góp cho diện mạo văn học của tỉnh nhà nói riêng, của nền văn học dân tộc nói chung, tản văn Đinh Hạ ngày càng khẳng định được giá trị của thể loại. Tản văn của anh không còn là “những chuyện tản mạn”, “những chuyện vụn vặt” mà là một tiếng nói, một thông điệp nhân văn, một sự lao động nghệ thuật nghiêm túc. Hi vọng trong thời gian tới, tản văn Đinh Hạ tiếp tục phát triển với những suy ngẫm sâu sắc, với tình yêu cực độ và với sự sáng tạo không ngừng, góp phần vào sự phát triển chung của dòng chảy “tản văn” hiện đại Việt Nam.

Như có sự sắp đặt của tạo hoá, trong hoàn cảnh đặc biệt của cuộc kháng chiến chín năm trường kỳ gian khổ đã sản...
Bình luận