Cõi người: Nghìn trang tuyển tập thơ Hoàng Cát

Cũng tại NXB Hội Nhà văn, năm 2009, Hoàng Cát đã cho ra đời “Tuyển tập thơ” lần thứ nhất. Khi đó, sách chỉ dày 560 trang, khổ 14,5x20,5cm, có 381 bài thơ. Lần này sách dày nghìn trang, khổ 16x24cm, gồm 776 bài. Tạm nêu những nhóm bài gồm 1:Thơ về nhiều miền đất nước, trong đó có miền Trung và quê nhà Nghệ An. 2: Thơ về tình đời, gồm tự thán, cảm hứng về bản thể; tình yêu đối vợ và con cháu; tình yêu đối với phái đẹp; ký ức chiến tranh, đời sống thời hậu chiến; tình nghĩa bạn bè. 3: Thơ về nghiệp văn, thi ca, thi sĩ. Chia tách như trên chỉ mang ý nghĩa tương đối. Đối tượng hiện thực và xúc cảm thường lồng ghép vào nhau. Trước và sau khi sách ra, Hoàng Cát có triệu chứng bệnh ung thư trở lại. Vợ nhà thơ cũng bị ung thư từ lâu, lên bàn mổ đến lần thứ sáu.

1. Với la liệt cồn cát trắng, miền Trung và quê nhà Nghệ An ràn rạt gió Lào mà con người thì chân mộc, kiên gan, giàu lòng nhân ái, đã trải ra trên trăm trang thơ. Cũng như các bạn thơ Nguyễn Bùi Vợi, Vương Trọng, Hoàng Trần Cương, Quang Huy, Võ Văn Trực, Võ Thanh An… và mới đây là Nguyễn Hữu Quý, Trần Quang Đạo, Hoàng Cát yêu miền Trung cùng làng quê của ông đến thắt lòng, quặn ruột, thể hiện ở rất nhiều bài thơ. “Qua Ninh Chữ”, ông viết:

“Ta nhớ vô cùng!... Ai nhớ không?/ Ta là hạt cát của miền Trung/ Như hoa trên nhánh xương rồng ấy/ Vẫn nở vì nhau đến cháy lòng”. Thi sĩ Gửi về miền trung: “Thương lắm miền Trung nắng chói chang/ Ai về, ta gửi nhớ mênh mang/ Nhớ bờ dứa dại vàng khô lá/ Nhớ gió Lào khan quạt cháy lưng// Những mái nhà tôn, những mái tranh/ Phơi trần, mặc nắng lửa vây quanh/ Những cồn cát trắng mênh mông nắng/ Lác đác xương rồng run lá xanh. Thi sĩ tự hào với Quê hương trong tôi: Quê hương trong tôi – là một vùng đất hẹp miền Trung/ Phía đông là biển xanh, xanh biếc đến vô cùng/ Phía Tây là Trường Sơn, rừng xanh, xanh ròng rã/ Và gió Lào. Gió Lào xối xả/ Và nắng hè rực rỡ không gian/ Và sông Lam - ôi dòng sông Lam - trong như nước mắt ai nhìn ta buổi đầu bỡ ngỡ/  Nước êm chảy giữa đôi bờ cát lở/ Giữa đôi bờ ngô mía rờn xanh/ Mái trường tuổi thơ là những dãy nhà gianh/ Bóng phượng vĩ và phi lao yên lành trùm mát/ Nhạc gió mùa hè reo vi vút/ Chim sẻ từng bầy râm ran ngọn cây…

Mê đắm không gian văn hóa xứ Nghệ, thi sĩ càng yêu Tiếng Nghệ - tiếng thân thương phát ra từ ông bà, bố mẹ, anh chị em, cô bác cùng mọi người ở làng quê từng khắc ghi vào sâu thẳm tâm hồn ông. Hoàng Cát từng tâm sự nhiều lần với Vương Trọng về tiếng Nghệ. Ông cũng có một số bài thơ nói về tiếng Nghệ, một phương ngữ độc đáo, khi da diết nhớ đến quê nhà yêu dấu.

Có thể nói, muốn tìm những bài thơ rất chân thật, rất trữ tình, rất sâu lắng về miền Trung hoặc xứ Nghệ thì hãy đọc Hoàng Cát. Thơ Hoàng Cát thấm đẫm hồn quê xứ Nghệ, hiển lộ rành rọt cốt cách người xứ Nghệ.

Cõi người: Nghìn trang tuyển tập thơ Hoàng Cát - 1

Nhà thơ Hoàng Cát

2- Thơ về tình đời, tự thán, cảm hứng về bản thể của Hoàng Cát rất xúc động. Trải qua trận mạc, bị thương cho đến khi sống những ngày hòa bình thì lại phải chịu đựng mười lăm năm rất khốn khổ, tiếp theo là bệnh tật hàng chục năm (sau hai lần đột quỵ do nhồi máu cơ tim rồi ung thư, kể cả chiến trường nữa chín lần thoát chết), thì Hoàng Cát đã ngỡ không thể vượt qua nổi. (Ta nhấm nháp chính vui buồn lận đận/ Cuộc đời ta đã chồng chất nghìn trang).

Nhưng nghị lực, tình yêu đối với cuộc sống và thơ ca của chính Hoàng Cát đã giải thoát cho ông ra khỏi mọi vùng tăm tối, cùng cực. Càng gặp gian truân ông càng yêu đời hơn, gắn bó với thơ nhiều hơn. Trong bài “Thì hãy sống”, thi sĩ viết: Tuốt tuột sống - như Trời cho ta sống;/ Tuốt tuột yêu - như đất bảo ta yêu; Tuốt tuột là ta - nhập với đời với mộng; Tuốt tuột thi nhân - bất luận giàu nghèo.

Cõi người: Nghìn trang tuyển tập thơ Hoàng Cát - 2

Bìa tập thơ "Cõi người"

Trong bài “Cát bụi đời tôi” tặng hai bạn thơ Vương Trọng và Trần Quang Đạo, thi sĩ tự thán: “Tên là CÁT - tôi sẽ rồi cát bụi/ Giữa mênh mang bất tận cõi đời này;/ Bí mật ấy do Đất Trời sắp đặt,/ Tâm hồn tôi luôn thanh thản, lây vây...// Tôi đã sống hết mình là Hạt Cát/ Đẹp lung linh bên biển biếc, nắng vàng/ Ru du khách bao chiều hè mê mẩn/ Biển cùng tôi lăn sóng - gió miên man...// Là cát bụi - mà không là cát bụi!/ Vẫn mặc nhiên, lặng lẽ mãi bên đời/Tôi Hạnh phúc!... Tôi vô cùng sung sướng/ Hạt Cát Vàng - biển biếc của đời tôi!”...

Hoàng Cát có nhiều bài thơ nói về thân phận mình. Đó là thơ thương thân, gợi cho bạn đọc nhớ đến dòng thơ này ở thời trung đại và ca dao cổ. Thi sĩ rất tự hào về thơ mình, về sự đóng góp của mình cho xã hội, Tổ quốc, cho nền thi ca nước nhà với tư cách một công dân tích cực - ông nói về người lính khi chính ông từng ở trong quân ngũ, nói về thương binh khi chính ông là thương binh thời chống Mỹ, cứu nước - nhưng cũng đồng thời tự cho rằng thân phận mình như con kiến, như cỏ cây ven đường bụi bờ hoang dại…

Ông thương cảm mọi kiếp người lầm lụi. Thi sĩ thiết tha muốn sẻ chia ôm trùm, nâng niu tất cả, nhất là những cảnh ngộ khốn cùng: “Vẫn cày rãnh trên mặt nhăn, mắt trũng/Suốt một đời không thoát khỏi lầm than” (Quanh quẩn).

Tự thán về thân phận mình nhưng ông luôn luôn đặt cá nhân vào cộng đồng vào cuộc sống chung tuy còn khốn khổ, bất công nhưng vẫn còn nhiều ao ước, hy vọng, không có cảm giác bị cụt đường, chặn lối. Thi sĩ giãi bày rằng, ông rút từ gan ruột, từ cuộc đời yêu dấu để làm thơ (Tôi đã cháy hết mình vì cuộc đời lớn rộng).

Đã có lúc thi sĩ phải kêu lên: “Ôi - kiếp nhân sinh muôn đời lấm mặt /Ta chỉ như là con kiến hôi thôi!” (Ta chỉ như). Những bài thơ cảm ơn vợ, cảm ơn con gái, giãi bày tấm lòng người chồng, người cha cũng có chất tự thán khi lồng ghép vào xúc cảm về nguyên quán Nghệ An, gia cảnh tổ tiên ông bà… Tình đời - thân phận Cõi người còn có cả ở nhóm thơ viết về kỷ niệm buồn thương sâu đằm mà tác giả là nhân vật trong và sau cuộc chiến tranh.  

Hoàng Cát mãnh liệt tin yêu cuộc sống: “Sống hừng hực bùng lên dữ dội/ Rồi thành than, thành đá tặng dâng đời/ Một chút gì chăng dù xiết đỗi nhỏ nhoi/ Cho cuộc sống con người mang ý nghĩa// Sống như lửa, dù mình là nhỏ bé/ Làm ngọn lửa con - còn hơn kẻ sống dư/ Một lần sống thôi - phải sống thật say mê/ Dâng hiến hết những gì Trời Đất tặng!” (Sống như lửa). Nhưng nỗi niềm yêu tin cuộc sống ấy lại đan lồng vào cái buồn xót đắng sâu xa của “Cõi Người”. Cứ như là có đối nghịch bất hòa trong hồn thơ ông. Thật ra, rất thống nhất, bởi càng tin yêu, mơ ước cao đẹp thì càng xót buồn, nhưng không hề tuyệt vọng, không chạm tới bi đát.

Hoàng Cát viết nhiều về người vợ. Hình ảnh người vợ rất đỗi yêu thương, nhẫn chịu, luôn luôn là chỗ dựa vững chãi của thi sĩ, đã ẩn hiện nhiều lần trong thơ ông. Ông thật lòng hàm ơn vợ, ngưỡng mộ vợ, tôn vinh vợ. Ông thưa với bạn đọc rằng người ấy là “vàng ngọc” của đời ông. Bà Tâm chịu đựng cùng chồng những năm tháng khốn khó, sau này lại chăm chồng mắc bệnh hiểm nghèo; bà chịu đựng việc thơ phú của ông đã là mệt mỏi lắm, ấy thế mà bà cũng lâm bệnh hiểm nghèo, nan y, phải sáu lần lên bàn mổ.

Thật là xót đắng vô vàn đối với một thi sĩ chỉ biết làm thơ bất kể khi nào, yêu và ăn cơm vợ sắp sẵn cho; mà giờ đây, vợ bị cắt da, cắt thịt, thì có khác gì tim phổi ông như bị xé rách ra từng mảng. Hai giờ sáng “Khuya nằm nghe vợ ngáy”..., thi sĩ viết: “Nằm cách nhau tòa gác/ Mà nghe tiếng ngáy dồn/ Anh thương em thắt ruột/ Lo cho em từng cơn... Chẳng biết nói gì hơn/ Anh thương em nhiều lắm!/ Anh yêu em khôn cùng!/ Giá như là gánh nặng/ Anh đã vào ghé lưng”…

Tuy nhiên, chính bởi có trái tim dễ rung cảm đến tận cùng về cái đẹp và phái đẹp mà chàng thi sĩ từ thời trẻ trai cho đến hiện tại đã và vẫn đang yêu đến mức mê dại những phụ nữ có nhan sắc, nhất là họ cùng yêu văn chương - nghệ thuật, có tâm hồn thơ lãng mạn. Đó là một tình yêu sáng trong, nhân bản, mang rõ cá tính đàn ông mạnh mẽ không giấu diếm.

Thi sĩ có thể dễ dàng soạn được đầy đặn một tập thơ tình. Ông thú nhận: “Tám mươi tuổi chẵn, còn hun lửa/ Còn nuối thanh xuân, đắm đuối yêu;/ Lửa vẫn âm âm trong hồn thẳm/ Biết bao dáng dấp, tuổi yêu kiều” (Vẫn còn ngoái lại). Và đây cũng là thơ ông: “Ta yêu người không chỉ bởi làn môi/ Ta đắm đuối bởi vì nàng diễm lệ/ Một trăm tuổi - cho dẫu hơn thế nữa/ Vẫn bồn chồn mong đợi được người yêu”... (Khó tả lắm).

Chính vì xem tình yêu đối với vẻ đẹp của phụ nữ (cả dáng vẻ đến tâm hồn họ) xuất phát từ tình yêu cuộc đời lớn rộng mà thi sĩ đã có lần, trong bài thơ gửi “người vợ vàng ngọc” của mình, đã bạo dạn như là thanh minh rằng: “Cuộc đời này diễm lệ biết bao nhiêu/ Không biết sống, biết yêu là bất hạnh”. Trong bài thơ Cảm nhận cuộc đời, ông thú nhận: “Nếu không đa tình, anh chẳng phải thi nhân”…

Yêu vợ đến tận cùng gan ruột nhưng đồng thời cũng yêu phụ nữ đến bay bổng mây xanh, đó chính là thơ Hoàng Cát. Xét cho cùng, đối với thi sĩ, “chả phải chỉ yêu nhiều thiếu nữ/ mà yêu da diết cả sơn hà”. Thi sĩ thưa với độc giả rằng “Trời cho nay đã một đống tuổi già/ Thơ vẫn cuộn trong hồn như tuổi trẻ”. Yêu tất cả, sống, nghĩ, làm và tri ân tất cả, bởi ông chịu ơn sâu nặng đối với tất cả trong mọi quan hệ mà bản thân là phần còn lại.

3- Viết về nghệ thuật thơ Hoàng Cát vừa dễ vừa khó. Dễ vì tác giả giãi bày quá rõ ràng cảm nghĩ của mình về bản thân gia đình, xã hội, thời thế… Thi sĩ sống hết mình, dốc như cạn, đốt như cháy bản thể. Không úp mở, ví von. Ngay cả các thực thể đã trở nên thi ảnh của riêng ông như cây khế, phòng văn, bậc cầu thang, sân nhà, cái điếu cày thân thuộc... Và đặc biệt là khúc chân bị mất, cũng được tác giả giao lưu tâm sự nhưng tuyệt nhiên không mang nghĩa bóng hoặc nghĩa ẩn dụ. “Nói ngay, không nói lòng vòng/ Sống là phải sống tận cùng sướng vui”. Thi sỹ đã mặc định kiểu ứng xử văn hóa ấy rồi: hãy viết bằng cả tâm can mình như lửa cháy, nói ra tuốt tuột bằng con đường ngắn nhất, không son phấn. 

Còn viết về Hoàng Cát khó là thế nào? Là do cái dễ tạo nên: hầu như mọi người đều nhận xét về con người Hoàng Cát, về thơ Hoàng Cát như nhau. Ai nói trước, người đó có công phát hiện. Người nói sau chỉ nói lại điều đã cũ. Năm 2007, tác giả Võ Kim Ngân đã nhận xét: "Thơ Hoàng Cát là máu thịt được dứt ra đặt lên trang giấy (...).

Ấn tượng về những bài thơ của ông thật lạ lùng. Đó là những bài thơ như được rút ruột ra, rút tim ra để viết” (bài in ở Tuyển tập). Trên báo Văn nghệ (8-4-2000), nhà thơ Ngô Quân Miện viết: “Thơ Hoàng Cát thiết tha, da diết trong cảm xúc. Thơ anh có nhiều lúc lắng đọng, tinh tế. Nhưng riêng tôi, tôi thích hơn cả là cái chất sôi nổi, khỏe khoắn, mạnh mẽ ở thơ anh - mạnh mẽ trong cả niềm vui và trong cả nỗi đau. Ở anh, những cảm xúc bao giờ cũng muốn trào lên hết cỡ, cách tỏ bày của anh như muốn trút tận đáy những xúc cảm ấy, nó cuốn người đọc cảm theo nó. Đó là chỗ mạnh của thơ Hoàng Cát”. Thơ Hoàng Cát đúng là thơ trữ tình (truyền thống), thì Vương Trọng đã nhận xét rồi; thơ Hoàng Cát là sự cháy bùng của lửa, thì Trần Quang Đạo đã khẳng định.

Tại chùm bài nói đến nghiệp văn, thơ ca, vai trò - chỗ đứng và lao động thơ của thi sĩ - thi nhân ở khía cạnh quan niệm, chính Hoàng Cát đã nói nhiều về thơ mình. Ông chung thủy với cách viết truyền thống và coi trọng tư tưởng. Quan niệm về thơ, nhà thơ của ông gần trùng khớp với sáng tác của chính tác giả. Đối với Hoàng Cát, nghệ thuật lặn vào nội dung, nội dung tự nói lên nghệ thuật. Nói khác đi là nghệ thuật thơ Hoàng Cát là không cố ý nghệ thuật. Nghệ thuật tồn tại trong nỗi niềm buồn vui của đời sống như là bất tận, bừng nở, cuộn trào, bật cháy của cái tôi trữ tình đầy khao khát trao gửi, giao hòa, tri ân đối với thế giới bên ngoài bản thể.

Thi sĩ Hoàng Cát đã tự bạch ở bài Ta cần nội dung thôi: “Ta cần nội dung thôi - ta chả cần hình thức (…)/ Ta ghét thói phô trương ngữ ngôn, hình thức/ Thực chất ra, trong ruột rỗng không”. Rồi ông tự nhận xét thơ mình: “Hình thức trung bình, nhưng nội dung đặc sắc”. Chả thế mà trong bài Làm văn nhân, ông viết: “Ý tưởng văn nhân phải ngập tràn tim óc/ Phải dằn lên, đặt xuống triệu lần/ May chăng thể hồn văn sâu đậm/ Mới được cuộc đời trân trọng nâng niu”.

Thi sĩ nhấn mạnh rằng thơ phải có cảm xúc, hơn thế, cảm xúc trào dâng ào ạt. Đồng thời thơ phải có vần, có nhịp để dễ đọc, dễ hiểu, dễ nghe, dễ thuộc, nếu không thế thì thơ khô khan như sỏi đá. Bởi vậy mà thơ ông ít chịu gò bó, chật chội về dung lượng hoặc chặt chẽ về gieo vần, mà phần lớn là thơ truyền thống - hiện đại, thơ tự do. Ông ít làm thơ lục bát và tứ tuyệt.

Cõi người: Nghìn trang tuyển tập thơ Hoàng Cát - 3

Thơ ông là sự thấm đẫm hồn quê với cốt cách người Xứ Nghệ điển hình.

Thơ Hoàng Cát có cái vẻ hồn nhiên, giản dị (nhiều trường hợp như lời kể, lời nói thưởng), nhưng lại không giản dị chút nào đối với người quen nếp đọc thông thường. Điều đó không phải tác giả tự mâu thuẫn mà đối với thi sĩ này, sáng tạo nghệ thuật còn là ý thức tự do - tự do lệch chuẩn hình thức văn chương, ít ra là ở khía cạnh diễn đạt chính tả và trình bày văn bản. Ông nhấn mạnh ý nghĩa lời thơ bằng các kiểu cách khác người như: chữ viết thường, chữ viết hoa (hoa cả chữ và hoa đầu âm tiết), chữ đậm và dấu chấm lửng (…), dấu cảm thán, các gạch ngang dài ngắn khác nhau, v.v. Đọc thơ Hoàng Cát, nếu bỏ qua cách trình bày nói trên, né tránh những chi tiết khác lạ rườm rà ấy thì sẽ có thể bị giảm hiệu quả tiếp nhận đi nhiều.

Nếu cần nói ngắn gọn về thơ Hoàng Cát mà ít người nêu ra, nhấn mạnh, thì đó là tố chất hồn nhiên, tươi trẻ và mong manh luôn luôn song hành với tố chất ưu tư, mạnh mẽ và già dặn; là sự thấm đẫm hồn quê với cốt cách người Xứ Nghệ điển hình; là yêu thương khao khát đến cháy lòng; là ý thức coi trọng nội dung hơn hình thức - nghệ thuật nhưng chữ nghĩa trình bày văn bản nhiều khi lại kỹ lưỡng, khác người; là lượng (hàng nghìn bài thơ) có thể chuyển thành chất mức độ có thể.

Phải chăng, người em kết nghĩa của nhà thơ Xuân Diệu, đã chịu ảnh hưởng bởi người anh thi sĩ lớn, đó là tận hưởng và trao gửi đến cùng kiệt sống và yêu, đó là “chân chân chân, thật thật thật”, đó là dấu câu rất tỉ mỉ do trước kia Xuân Diệu cùng các nhà thơ Mới khác từng chịu ảnh hưởng phần nào của văn phạm nước Pháp mạch lạc, khúc chiết (?)

Đối với thi sĩ Hoàng Cát, Đời và Thơ là một. Hoàng Cát trọn vẹn là thơ, thơ là tất cả Hoàng Cát trong Cõi Người tươi đẹp, yêu thương mà cũng luôn luôn đầy gian truân, khốn khó này.

Một số bài thơ của Hoàng Cát:

  CẢM TẠ CUỘC ĐỜI!...

                       

Anh mãi mãi yêu Em như thuở ban đầu

Thuở hai đứa gặp nhau - thường đỏ mặt; 

Thuở sang nhất - cùng song song xe đạp, 

Cơm bữa độn mì - vẫn náo nức vé xem phim... 

Là Thi nhân - anh là kẻ đa tình. 

Trước một dòng sông, hay một miền đất lạ,

Anh hăm hở như người đi khám phá;

Đời thi vị vô cùng! - sao ta nỡ bỏ qua?

Yêu có tội chi?

Yêu là để thăng hoa

Để được sống kiếp Người như Trời cho ta Sống!

Nếu không đa tình, anh chả phải Thi nhân! 

Anh mãi mãi yêu Em. 

Anh nhắc lại ngàn lần! 

Tình yêu ấy cho anh thành Thi sĩ. 

Cảm tạ Cuộc đời!

Cảm ơn Em biết mấy!!!...

                     Bệnh viện Bạch Mai, 3/2/2013

TỰ DẶN LÒNG MÌNH

Sống thật đẹp, để rồi khi ốm bệnh

 Khi “bai bai” chẳng phải hối điều gì

 Để bè bạn luôn quây thành bếp lửa

 Sưởi ấm lòng ta những lúc cóng tê đi.

Mở rộng hết vòng tay - yêu thương đồng loại

Dù thân quen hay xa lạ - bất kỳ 

Ai cũng là ta. Ta như ai - vô luận 

Để nhẹ nhàng - lúc mãi mãi chia ly...

Đời đẹp lắm!

Con Người đẹp lắm!...

Chỉ một lần thôi sống trên cõi đời này; 

Tha thứ hết. Sống chân thành - cháy hết!

Góp cho cuộc đời chút bụi ngọc li ti...

Xin để lại tình ta sâu nặng mãi 

Tình gia đình. Tình bè bạn gần xa 

Xin được thứ tha những điều ta chưa phải...

Cuộc đời ơi!...

Ta Yêu mãi...

Thiết tha...

     Bệnh viện Bạch Mai, đêm 23-1-2013

TÔI YÊU EM

Tôi yêu em...

Tôi đã yêu em

Và tôi đã hôn em trong hương gió...

Em bình dị

Mà âm thầm sức lửa

Tỏa nồng say cho trái tim tôi...

Từ đây, đời tôi hết đơn côi;

Có em, tôi trở thành giàu có:

Mây của tôi, nắng gió của tôi

Tiếng chim hót... cũng của tôi tất cả!

Thì mặc kệ - cứ yêu

Dù nghiệt ngã có thể tràn

Và cay đắng chia li có thể đến

Bất kỳ trong khoảnh khắc...

Tôi yêu em!

Em đừng hoài nghi!....

Em đừng hoài nghi khi tôi im lặng

Ngồi bên em như đứa trẻ lỗi lầm

Ấy là khi nỗi niềm say đắm

Dâng trong tôi hóa thành chuỗi lời câm!...

Tôi yêu em.Tôi yêu trong tim

Tôi thao thức. Mà nào em có biết!

Tôi yêu em...

Cho đến ngày tôi chết, 

Tôi sẽ mang hình em vào cõi vô cùng!!! 

Suốt một đời - Em có hiểu tôi không?…

“Trong thơ Hoàng Cát, tố chất hồn nhiên, tươi trẻ và mong manh luôn luôn song hành với tố chất ưu tư, mạnh mẽ và già dặn; là sự thấm đẫm hồn quê với cốt cách người xứ Nghệ điển hình; là yêu thương khao khát đến cháy lòng; là ý thức coi trọng nội dung hơn hình thức - nghệ thuật nhưng chữ nghĩa trình bày văn bản nhiều khi lại kỹ lưỡng, khác người; là lượng (hàng nghìn bài thơ) có thể chuyển thành chất mức độ có thể.

Phạm Đình Ân

Tin liên quan

Tin mới nhất

Quảng bá văn học cần hiệu quả và bền vững

Quảng bá văn học cần hiệu quả và bền vững

Thời gian qua, hoạt động quảng bá văn học diễn ra khá sôi nổi. Một số cách thức sáng tạo, bắt nhịp công nghệ số đã góp phần tạo xu hướng đọc sách, định vị hình ảnh và tương tác mới, theo báo Nhân dân.

Hà Nội ra mắt nền tảng số đặc biệt “A80 - Tự hào Việt Nam”

Hà Nội ra mắt nền tảng số đặc biệt “A80 - Tự hào Việt Nam”

“A80 - Tự hào Việt Nam” không chỉ là cổng thông tin, mà còn là trợ lý ảo cung cấp mọi thông tin cần thiết về hoạt động kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 trên địa bàn Hà Nội; đưa ra hướng dẫn về giao thông, y tế, nhà hàng, khách sạn… phục vụ nhu cầu của nhân dân và du khách.

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

Phó Thủ tướng Chính phủ Mai Văn Chính ký Quyết định số 1669/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 156-KL/TW ngày 21/5/2025 của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu c

Nâng cao chất lượng triển lãm chuyên đề tại các bảo tàng mỹ thuật

Nâng cao chất lượng triển lãm chuyên đề tại các bảo tàng mỹ thuật

Trong khuôn khổ chương trình triển lãm “Nét đẹp di sản văn hóa Huế qua nghệ thuật ký họa”, ngày 7/8, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng phối hợp các đơn vị liên quan tổ chức tọa đàm "Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác triển lãm chuyên đề tại các bảo tàng mỹ thuật ở Việt Nam".

Tiếp tục gìn giữ và tôn vinh di sản áo dài Việt Nam

Tiếp tục gìn giữ và tôn vinh di sản áo dài Việt Nam

Ngày 9/8, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Hiệp hội Văn hóa Áo dài Việt Nam tổ chức chương trình nghệ thuật kết hợp trình diễn áo dài đặc sắc chào mừng thành công của Đại hội lần thứ nhất Hiệp hội Văn hóa Áo dài Việt Nam (nhiệm kỳ 2025-2030), mở ra chương mới trong sứ mệnh gìn giữ, tôn vinh di sản áo dài Việt Nam trong nước và quốc tế.