Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng là nhà giáo dạy sử
Trước khi trở thành vị Tổng Tư lệnh Quân đội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng là một giáo viên dạy môn Lịch sử xuất sắc tại trường Tư thục Thăng Long (Hà Nội).
Năm 1936, ở Pháp Mặt trận Bình dân lên nắm quyền, buộc chính quyền thuộc địa ở Đông Dương phải thực hiện một số cải cách dân chủ: thả tù chính trị bị giam cầm, trong đó có thầy Đặng Thai Mai, học sinh Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều)... của Trường Quốc học Huế.
Sau khi được trả tự do, Võ Nguyên Giáp theo thầy Đặng Thai Mai ra Hà Nội. Tại đây, ông đã dành một thời gian ngắn học ôn để thi lấy bằng Tú tài phần Nhất. Với tư cách thí sinh tự do, Võ Nguyên Giáp đã thi đỗ hạng ưu. Từ đây, được thầy Mai giới thiệu, Võ Nguyên Giáp vào dạy môn lịch sử tại Trường Thăng Long (1936 – 1939. Võ Nguyên Giáp vừa dạy học kiếm sống vừa học Khoa Luật (chủ yếu là luật kinh tế) Trường Đại học Đông Dương và tham gia viết báo, rồi trở thành Chủ tịch Ủy ban Báo giới Bắc Kỳ.

Thầy Giáp đang soạn giáo án
Trường Thăng Long là một trường tư thục ở số nhà 20, ngõ Trạm (nay thuộc phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm Hà Nội), đã trở thành một địa chỉ Đỏ, một di tích lịch sử cách mạng. Trang sử của trường ghi rằng: “Cách nay 78 năm, chàng thanh niên yêu nước Võ Nguyên Giáp đã gieo vào các thế hệ học trò lý tưởng phải sống sao cho trọn đạo với quê hương. Ông cùng với những trí thức tiến bộ như: Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Đỗ Văn Minh... trở thành những giáo viên đầu tiên của Trường tư thục Thăng Long, một trong những cái nôi đào tạo nên nhiều nhà cách mạng...”.
Trong khi giảng những bài lịch sử về phong trào Cần Vương chống Pháp, cuộc khởi nghĩa Yên Thế, khởi nghĩa Phan Đình Phùng... hay những tấm gương chiến đấu đầy khí phách của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu... do thầy Giáp truyền lại cho học trò, thầy đều đưa những học cụ như sơ đồ, bản đồ để minh họa trực quan bằng tranh ảnh, hoặc đưa học trò đi học dã ngoại, tới nơi diễn ra sự kiện như ở Cửa Bắc, Thành Hà Nội..., đứng trước lỗ thủng do đạn pháo của tàu chiến Pháp từ sông Hồng bắn vào thành, hay đến ô Cầu Giấy, nơi tên chỉ huy quân Pháp Henri Riviere Garnier tử trận.
Tại hiện trường thầy giảng giải cho học sinh về diễn biến của trận đánh và gieo vào các em lòng căm thù quân xâm lược, khơi dậy tình yêu Tổ quốc, ý chí quyết tâm cứu nước và làm cho học trò dễ hiểu, dễ nhớ. Do đó mỗi tiết học lịch sử của thầy Giáp luôn luôn có sức truyền cảm mãnh liệt.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các thầy cô trường Tư thục Thăng Long.
Trường Thăng Long khai giảng niên học đầu tiên vào tháng 9 năm 1935. Nhìn vào danh sách giáo viên ta thấy trường này là của các nhà trí thức tiến bộ nổi tiếng, có tinh thần yêu nước như Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu), Vũ Đình Hòe, Nguyễn Cao Luyện, Trịnh Văn Bính, Vũ Đình Liên... Vì thế nên học trò các tỉnh đua nhau tìm đến học. Ngay năm đầu tiên đã có trên 2.000 em ghi tên, một thắng lợi lớn, mà những người thành lập trường chưa hề nghĩ tới. Mặc dầu, thời bấy giờ trong dân gian vẫn lưu truyền câu nói cửa miệng: “Học trò trường tư vừa hư vừa dốt”. Bởi xã hội quan niệm rằng: những trò nào đã học dốt thì vừa hư hỏng, do đó không thể thi đỗ vào trường công được, nên buộc phải vào học trường tư. Nhưng ngược lại Trường tư thục Thăng Long lại nổi lên như một điểm sáng trong khối các trường tư, khiến cho mấy ông Tây giàu có, có thế lực bỏ tiền ra lập trường tư thu tiền rất tức tối. Họ tìm cách nhờ bọn mật thám Pháp theo dõi, để kiếm cớ, tìm cách đóng cửa trường.Nhưng các thầy giáo Trường Thăng Long đầy kinh nghiệm, đã chủ động khôn khéo, kín đáo trong khi truyền đạt kiến thức cho học sinh khôn khéo lồng nội dung yêu nước vào bài giảng, nên bọn chúng không thể tìm lý do gây khó dễ cho nhà trường. Tuy vậy, hàng năm chúng vẫn “mời” một số thầy lên lấy cớ “hỏi thăm sức khỏe”, khi thầy ra về bọn chúng không quên hăm dọa: “mong thầy lưu ý cho, thầy đã đi quá vào nhiều điểm mà nhà nước Pháp không quy định trong chương trình giảng dạy”.
Trong hồi ký thầy Hoàng Minh Giám đã viết: “Phương pháp giảng dạy của các thầy luôn luôn chú trọng khơi gợi ý thức tự giác học tập trong học sinh, thức tỉnh động cơ yêu nước và căm ghét kẻ thù xâm lược vào trong các tâm hồn trẻ. Trường đã vận động một một đội ngũ đông đảo giáo viên và học sinh tham gia “Hội Truyền bá Quốc ngữ”. Cuộc vận động đó có tác động rất tốt đến tư tưởng học sinh, mở đường cho anh chị em biết cách thể hiện tình yêu nước thương nòi, đề cao nhân văn tiến bộ. Nhà trường chủ trương trong quản lý giáo dục phải tôn trọng nhân phẩm học sinh. Ngược lại các anh, các chị học sinh thường rất lễ phép, yêu kính các thầy”.
Trường Thăng Long hoạt động trong một thời kỳ lịch sử sôi động của đất nước: Phong trào Đông Du, Khởi nghĩa Yên Bái, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Mặt trận Bình dân Pháp lên nắm chính quyền, ở Đông Dương Mặt trận Phản đế ra đời, Mặt trận Việt Minh dấy lên cuộc Cách mạng Giải phóng Dân tộc, trong lúc cuộc Đại chiến Thế giới thứ hai (1939 – 1945), làm đảo lộn cả năm châu bốn biển. Trong bối cảnh đó thầy trò Trường Thăng Long tích cực tham gia các hoạt động yêu nước như tổ chức bán các báo công khai của Đảng như: tờ Le Travail, Rassemblement, En Vant, Thời Thế, Tin Tức, Đời Nay...
Trong 5 năm giảng dạy môn lịch sử tại Trường Thăng Long, thầy Võ Nguyên Giáp dạy cả lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới. Học sinh của trường do thầy Giáp và các thầy dạy, phần lớn sau này đã trở thành những cán bộ tướng lĩnh cao cấp của Quân đội Nhân dân Việt Nam như Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Trung tướng Lê Quang Đạo, Trung tướng Phạm Hồng Cư...
Trong kỷ yếu của Trường thường nhắc đến những bài giảng lịch sử đầy nhiệt huyết của thầy Giáp như bài giảng về cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789, với ý nghĩa 3 chữ: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, lý giải 17 điều trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp năm 1791, nhất là cuộc chiến tranh của Napoleon được thầy Giáp giải thích và phân tích trên cả sơ đồ vẽ các trận đánh ở Austerlitz và Borodino.

Trường Thăng Long, Hà Nội
Ông Bùi Diễm, từng là Đại sứ của Chính quyền Sài Gòn, tại Hoa Kỳ (1967 – 1972), là học sinh đã học môn lịch sử với thầy Giáp ở Trường Thăng Long, đã bày tỏ cảm xúc và sự trân trọng trong hồi ký của mình, đoạn hồi ức về thầy Giáp: “Trong tất cả các nhân vật đáng nhớ, đặc biệt có một người mà tôi khó quên đó là ông Võ Nguyên Giáp – người dạy tôi về môn sử... Ông như người bị quyến rũ bởi cách mạng và đấu tranh. Phần chương trình của lớp đã được ấn định là giai đoạn cuối thế kỷ XVIII cho đến thế kỷ XIX trong lịch sử Pháp, nhưng ông Giáp nhất định chỉ giảng về hai thời kỳ là cuộc cách mạng Pháp 1789 và những trận đánh thời Napoléon...
Qua trình bày của ông, người ta cảm thấy ông không chỉ là giáo sư sử học mà còn là một người thầy say mê cách mạng Phần giảng dạy của ông về Napoléon thì lại càng ly kỳ hơn nữa. Ông đi lại trước bảng đen với một cái thước gỗ để chỉ rõ các chiến địa, trình bày tường tận chiến thuật và chiến lược của Napoleon bằng cách mô tả từng trận đánh một. Hình như ông đã in sâu tất cả vào trong đầu và sử đã biến thành một phần của con người ông. Vì vậy, trong từng giờ dạy sử của ông, học sinh thường im lặng như tờ” để hớp lấy từng chữ từng câu của ông.
Về cấu trúc bài giảng của thầy Võ Nguyên Giáp lại rất logic, văn phong tiếng Pháp của thầy rất trong sáng, giản dị, khúc chiết, khiến cho học sinh đọc là nhớ ngay. Về phương pháp sư phạm rất nhuần nhuyễn và sáng tạo. Đứng trước lớp, ông nhìn vào học trò của mình và dõng dạc nói. Sự hấp dẫn của bài giảng bắt đầu từ việc nêu vấn đề và hướng người học, tập trung vào sự kiện, từ sự kiện rút ra bản chất và bài học lịch sử để học sinh hiểu lịch sử, biết được thời đại mà họ đang sống.
Đối với công việc giảng dạy môn lịch sử của thầy Võ Nguyên Giáp, giáo sư sử học Phan Huy Lê viết: “Trong con người vị thống lĩnh quân sự nét độc đáo chưa từng thấy ở bất cứ nhà quân sự thế giới nào, đó là trước khi trở thành nhà quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một nhà sử học, một giáo viên dạy sử ”.
Giáo sư, nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê viết tiếp: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa làm ra sử, vừa viết lại sử - Trong hồi ký của Đại tướng có mấy công trình mang giá trị lịch sử. Thứ nhất là “Chiến đấu trong vòng vây”; “Đường đến Điện Biên Phủ”; “Điểm hẹn lịch sử” và “Tổng hành dinh - mùa Xuân toàn thắng”. Đây là hồi ký của một Tổng Chỉ huy, cho nên ông vừa kể toàn bộ câu chuyện cực kỳ sinh động, mang tính chất hồi ký, nhưng bao quát toàn bộ lịch sử dân tộc”.
Trong thời gian sống và làm việc, học tập tại Hà Nội, Võ Nguyên Giáp còn tham gia nhiều cuộc đấu tranh công khai của Đảng. Trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, báo chí, ông viết cho nhiều tờ báo công khai của Đảng bằng tiếng Việt và tiếng Pháp và trở thành Chủ tịch Ủy ban Báo giới Bắc Kỳ. Sức làm việc của Võ Nguyên Giáp hết sức kỳ lạ. Ông có thể viết suốt 24 giờ liền cho toàn bộ một số báo Le Travail, để hôm sau đưa đến nhà in, kịp thời phát hành. Cuối năm 1939, Chính phủ Mặt trận Bình dân bị lật đổ, nước Pháp nói riêng và thế giới nói chung đang đứng trước nguy cơ đe dọa của chủ nghĩa phát xít. Ở Đông Dương, nhà cầm quyền thực dân Pháp thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng. Ngày đêm chúng ra sức lùng sục, bắt bớ, giam cầm, tra tấn dã man nhiều chiến sĩ cộng sản. Chính vào lúc này, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Đông Dương, khuyên Võ Nguyên Giáp nên ra nước ngoài, nơi ông có dịp gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mà ông từng ngưỡng mộ.
Trong thời gian dạy học ở Trường Thăng Long, Võ Nguyên Giáp xây dựng gia đình với người em ruột của chiến sĩ cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai là Nguyễn Thị Quang Thái, người mà ông quen đầu tiên trên một chuyến xe lửa Vinh – Huế, gặp Quang Thái lần đầu, Giáp đã có ngay cảm tình đặc biệt. Người nữ sinh xinh đẹp ấy, có điều gì đó hút hồn ông, dáng vẻ hiền dịu, nhưng không kém phần kiên nghị, bất khuất, đôi mắt thông minh, đầy quyến rũ. Ngày Quang Thái vào học Trường nữ sinh Đồng Khánh, Huế, tình yêu giữa hai người đã nảy nở. Kể từ đó, người thiếu nữ ấy đã bước vào đời ông. Và rồi họ lại gặp nhau trong nhà tù thực dân. Chính trong thời gian bị tù đày, Võ Nguyên Giáp càng hiểu Quang Thái hơn.
Mùa hè năm 1940, Võ Nguyên Giáp bí mật cùng với Phạm Văn Đồng lên đường ra nước ngoài. Để lại người bạn đời - người đồng chí, Nguyễn Thị Quang Thái và cháu gái mới sinh là bé Võ Hồng Anh chưa đầy tháng tuổi (sau này trở thành Tiến sỹ Vật lý xuất sắc). Trước giờ chia tay, chị Quang Thái hẹn, khi con cứng cáp sẽ gửi về cho nội, để thoát ly gia đình đi hoạt động. Nhưng cả hai không ngờ lần chia tay này cũng là lần vĩnh biệt. Chị Quang Thái bị Pháp bắt giam, bị tra tấn vô cùng dã man tàn bạo, nên đã mất trong nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.
Như một định mệnh, vừa đến Côn Minh, Trung Quốc, Võ Nguyên Giáp may mắn được gặp ngay lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chỉ sau một thời gian ngắn tiếp xúc, Bác Hồ đã thấy Võ Nguyên Giáp là người cần cho chặng đường cách mạng sắp tới. Bác đã cử ông đi học lớp quân sự tại căn cứ Diên An. Trên đường tời Diên An, ông được Bác gọi quay lại, vì tình hình thế giới có nhiều chuyển biến có lợi cho cách mạng nước ta. Ở châu Âu phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp, Bác nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh. Cần gấp rút trở về nước, chuẩn bị đón thời cơ.
Năm 1941, đúng dịp Tết Nguyên đán Tân Tỵ, Võ Nguyên Giáp cùng Bác trở về Cao Bằng. Trong thời gian sống và làm việc ở hang Pác Bó, Bác tiên đoán cách mạng Việt Nam sẽ sớm thành công vào năm 1945, một dự đoán thiên tài của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh./.

Buổi ra mắt tập di cảo của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp "Anh hùng còn chi" với sự tham gia của họa sĩ Lê Thiết Cương - người...
Bình luận