Bạn tôi - Bùi Mạnh Nhị

(Nhân tập sách “Chuyện sách chuyện đời” của TSKH Bùi Mạnh Nhị ra mắt bạn đọc)

1-

Năm tháng đi qua, tôi không thể nhớ chính xác gặp Bùi Mạnh Nhị ngày nào của năm 1974. Cuối năm 1973, từ mọi miền của các tỉnh miền Bắc, chúng tôi tụ hội về khoa Ngữ Văn của trường Đại học sư phạm Hà Nội I - học làm thầy giáo. Tất cả chúng tôi đều giống nhau là học trò trường huyện về học đại học ở Thủ đô: Trần Hòa Bình từ huyện Quảng Oai của tỉnh Hà Tây, tôi từ huyện Thuận Thành của tỉnh Hà Bắc, Bùi Mạnh Nhị từ trường trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Hà, lại học ở các lớp khác nhau (Bình và Nhị học lớp E, tôi học lớp K), nên chưa biết nhau những ngày đầu năm 1974.

Bạn tôi - Bùi Mạnh Nhị - 1

TSKH Bùi Mạnh Nhị

Hình như khi chúng tôi học cuối năm thứ nhất, đầu năm thứ hai, các thầy trong Ban chủ nhiệm (gồm thầy Lê Trí Viễn, chủ nhiệm khoa, thầy Nguyễn Văn Hạnh, Phó tiến sĩ (nay là TS) mới ở Liên Xô về, phó chủ nhiệm khoa, thầy Trần Văn Thận, bí thư đảng ủy, phó chủ nhiệm khoa) khoa Ngữ Văn khi ấy có ý tưởng mở một Câu lạc bộ sáng tác và nghiên cứu văn học.

Riêng buổi ra mắt đầu tiên thì tôi nhớ, anh Nguyễn Viết Hưng, giáo vụ khoa, đọc tên Bùi Mạnh Nhị, lớp E thì tôi mới ớ ra: thì ra, anh bạn mình gặp thường xuyên ở thư viện trường là Bùi Mạnh Nhị.

Mỗi khi tôi lên thư viện đọc sách, đã thấy anh bạn này ngồi đọc sách, ghi chép rất say mê, chả biết ai bên cạnh. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ: nếu được xếp hạng, mình xếp anh bạn này vào loại nhất trong sinh viên khoa Ngữ Văn về chăm chỉ đi thư viện, ngồi thư viện, mà nói như khẩu ngữ của sinh viên thời ấy là “mài đũng quần” nơi thư viện.

Quả thực, trong khóa sinh viên năm 1973-1977 của khoa Ngữ Văn, người chịu khó, say mê đi thư viện trường, đọc sách, ghi chép tài liệu là Bùi Mạnh Nhị. Mãi sau này khi vào công tác tại Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, tôi biết Nhị vẫn say mê đi thư viện Khoa học xã hội, thư viện Tổng hợp ở đây. Thỉnh thoảng, từ Bến Tre về đọc tài liệu ở các thư viện này, tôi đều phải hỏi Nhị. Tôi “chịu” sức nhớ của anh bạn thân, quyển nào có ở thư viện nào, khi hỏi là bạn có thể bảo cho tôi biết. Trở lại chuyện thời sinh viên, tại Câu lạc bộ sáng tác và nghiên cứu văn học, chúng tôi dần dà trở thành bạn thân thiết và dần có sáng tác. Trong nhóm bạn bè, Bùi Mạnh Nhị là người sớm có thơ in báo. Thời ấy, in được bài thơ trên báo là niềm vui, niềm sung sướng!

Tôi không biết lúc học trường phổ thông trung học chuyên Lê Hồng Phong ở thành phố Nam Định, tỉnh Nam Hà, Nhị đã có thơ in báo hay chưa, nhưng bài thơ đầu tiên của Nhị in báo thì tôi nhớ. Đó là bài “Trưa trên công trường” in báo Hà Nội Mới, số 2243, ra ngày 29 Tháng Tư 1975. Đang là sinh viên, mà có thơ in trên báo là vinh dự lắm. Khi ấy, Câu lạc bộ sáng tác và nghiên cứu văn học chúng tôi được tiếp xúc với các anh học ở Trường viết văn Nguyễn Du, mọi người đều giới thiệu đây là Bùi Mạnh Nhị, Trần Hòa Bình, hai bạn này đã có thơ in báo. Thoáng một thời gian sau, Bùi Mạnh Nhị đã được Hội Văn Nghệ Hà Nội trao giải thưởng thơ, loại B với bài “Mương con gái”. Tôi nể phục tài quan sát, suy ngẫm của Nhị, vì ngoài hàng rào của khu tập thể sinh viên chúng tôi khi ấy là làng Vòng, có mấy ai để ý :

Sao dòng mương có tên “Con Gái”

Để mùa về mang nỗi nhớ con trai?

Mà lời đề từ: Tặng đội thủy lợi nữ làng V. Từ Liêm của Nhị là minh chứng. Con đường thơ của Nhị đã được khẳng định trong nhóm chúng tôi khi ấy.

Đến ngày ra trường ngày16 tháng 9 năm 1977, chúng tôi chia tay nhau: Trần Hòa Bình về Khoa Ngữ Văn trường Đại học sư phạm Hà Nội II, Bùi Mạnh Nhị về Khoa Ngữ Văn trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, tôi về trường Cao đẳng sư phạm Bến Tre với lời tâm sự:

- Tiếp tục sáng tác thơ nhé.

Chúng tôi xa cách nhau về không gian, nhưng thư từ cho nhau thường xuyên và “ theo dõi” nhau trên báo chí thường xuyên, mừng cho nhau khi dở trang báo mà thấy thơ của bạn mình.

Khác với Trần Hòa Bình về công tác ở Khoa Ngữ Văn trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, tôi và Nhị đều đến Nam Bộ, một vùng đất mới với chúng tôi, để giảng dạy, sáng tác và thỉnh thoảng vẫn gặp nhau. Đầu năm 1978, từ Bến Tre, tôi lên nhà Nhị ở chung cư số nhà 242, Paster, lầu 3, phòng 304 “ăn vạ” cả cơm và tư liệu, để đến các thư viện ở đây đọc sách. Lại thêm nể phục người bạn, khi xem giá sách có khá nhiều sách xuất bản ở Sài Gòn và miền Nam trước năm 1975, tôi hỏi:

- Ông kiếm ở đâu tài thế ?

Nhị trả lời:

- Ở chỗ bán sách cũ, nhưng khó tìm, vì những người bán sách cũ hay giấu vì sợ tội bán sách cấm, và …

Tôi bảo: phải bỏ ra nhiều tiền, đúng không?

Nhị gật đầu.

Thực ra, từ năm 1978 đến năm 1982, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn về vật chất, nhất là tiền bạc chứ đâu phải dư dật gì. Từ giữa năm 1978, Nhị trở ra Hà Nội để học lớp Sau đại học, và viết luận văn về văn học dân gian, nhưng vẫn đều đặn sáng tác thơ. Đến năm 1980, Nhị mới trở lại thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục giảng dạy và sáng tác thơ và ngay năm ấy, Nhị đã được giải 3 về thơ của Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh với bài “Tranh làng Hồ ở Sài Gòn”:

Phố phường sắc điệp bừng lên

Nắng Sài Gòn nắng có bền màu tranh

Những cao ốc những buyn – đinh

Sài Gòn đâu chỗ treo tranh lợn gà

Khi đọc bài thơ trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, tôi nghĩ: bạn mình may mắn ở Sài Gòn, được chứng kiến, nhưng đọc những dòng sau:

Tranh gà gáy gọi bình minh

Tôi nhìn thành phố lung linh ánh ngày

Làng Hồ thả cánh diều bay

Gió Sài Gòn gió thêm dây cho diều

Sài Gòn ơi những thương yêu

Bầu trời như giấy lụa điều đề thơ

Gửi ra nhắn bạn làng Hồ

Câu thương lẫn nhớ câu chờ chiều nay

thì cảm động thực sự, bởi tôi là con em huyện Thuận Thành, nơi có làng tranh Đông Hồ,cùng xa cách làng tranh Đông Hồ như bạn mình.

Bạn tôi - Bùi Mạnh Nhị - 2

Bây giờ nhớ lại, tôi vẫn nghĩ, Nhị say mê, thậm chí đam mê sáng tác thơ, nhưng tháng 8 năm 1980, Nhị đã tặng tôi cuốn sách Sen Tháp Mười, ca dao miền Nam về Chủ tịch Hồ Chí Minh thì tôi thay đổi suy nghĩ của mình về Nhị. Tuy cuốn sách mỏng, gần 70 trang khổ 12x19, nhưng trong suy nghĩ của tôi vẫn là cuốn sách khẳng định lao động khoa học của Nhị. Thì ra, bên cạnh các công việc của người thầy giáo, Nhị vẫn sáng tác và lặng lẽ làm nghiên cứu khoa học. Trong các bạn bè tôi hồi ấy, Nhị vẫn là người thành công trước nhất, được khẳng định mà các bài thơ và bài nghiên cứu văn học dân gian là minh chứng.

Vào thành phố Hồ Chí Minh chừng một năm, năm 1978, Nhị trở ra Hà Nội học lớp Sau đại học mà sau này, Bộ Giáo dục và Đào tạo mới công nhận là Cao học, Luận văn tốt nghiệp của Nhị về phương ngôn Việt Nam, năm 1980, trở lại trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, mạch nghiên cứu của Nhị tiếp tục. Nam Bộ là vùng đất mới với người Việt nhưng sáng tác văn học/văn hóa dân gian của các tộc người ở Nam Bộ thì nhiều về trữ lượng tác phẩm, đa dạng về loại hình, phong phú về giá trị. Định hướng đúng đắn của Nhị, cùng các anh Trần Vĩnh, Nguyễn Tấn Phát ở nhóm văn học dân gian của Khoa Ngữ Văn, trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh là xem xét, đánh giá các sách về văn học dân gian của các tác giả đã công bố trước năm 1975 tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam, trực tiếp điền dã để có các sách sưu tầm, sưu tập về văn học dân gian ở Nam Bộ.

Năm 1984, cùng các tác giả Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị công bố cuốn sách Ca dao dân ca Nam Bộ (Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh), sách dày 507 trang, khổ 13x19, in 10,180 cuốn. Năm 1988, cùng hai tác giả Nguyễn Tấn Phát, Trần Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị công bố cuốn sách Truyện cười dân gian Nam Bộ, (nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh). Sách dày 254 trang, khổ 13x19. Có thể bạn đọc, nhất là các nhà nghiên cứu mong muốn các cuốn sách này sẽ tốt hơn, sâu sắc hơn, nhưng sau năm 1975, mà các tác giả từ miền Bắc vào đã làm được các quyển sách ấy thì quý lắm rồi,nhất là về mặt tư liệu.

Không chỉ làm tư liệu, Nhị rất chú trọng nghiên cứu. Nhiều bài nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ được công bố trong những năm nàyđược giới nghiên cứu văn học dân gian chú ý. Chẳng hạn, bài Truyện trạng Ba Phi, một hiện tượng văn học dân gian độc đáo công bố ở tạp chí Văn hóa dân gian số 3/1985,bài Tiếp cận văn học dân gian địa phương, từ đặc trưng của văn học dân gian công bố ở tạp chí Văn học ,số 3/1985 v,v… Trong diện mạo các tác giả sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ từ sau năm 1975 đến nay, chân dung Bùi Mạnh Nhị rất rõ ràng, có nét riêng. Nói cách khác, đóng góp của Nhị trong sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ từ năm 1975 đến nay là rõ ràng và sâu sắc.

Từ nền tảng ấy, cùng với việc chuẩn bị vốn tiếng Nga, năm 1988, Nhị sang Liên Xô trước đây giờ là Liên bang Nga làm nghiên cứu sinh phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) với đề tài Lịch sử nghiên cứu thi pháp bài ca trữ tình dân gian trong folklore học Việt Nam và folklore học Nga. Năm 1992, Nhị bảo vệ thành công luận án tại Viện Văn học Nga,Viện hàn lâm khoa học xã hội Nga. Không như các nghiên cứu sinh khác, Nhị ở lại Liên bang Nga làm luận án tiến sĩ  nay là Tiến sĩ khoa học) với đề tài Thi pháp trữ tình dân gian Việt Nam nhìn từ góc độ lý luận folklore học Nga. Đấy là một thách thức không hề nhỏ với một nghiên cứu sinh Việt Nam: gian khổ, vất vả. Năm 1995, Nhị bảo vệ thành công luận án tại Viện Văn học Nga, Viện hàn lâm khoa học xã hội Nga.

Thế là, trong số tất cả sinh viên K23( khóa 1973-1977) của Khoa Ngữ Văn, Đại học sư phạm Hà Nội 1, chỉ có mình Nhị có học vị Tiến sĩ khoa học, trong giới nghiên cứu văn học/văn hóa dân gian cả nước, chỉ mình Nhị có học vị Tiến sĩ khoa học. Nhị là người được đào tạo bài bản, toàn diện về nghiên cứu văn học dân gian. Một số bạn bè mong muốn được đọc bản tiếng Việt của hai công trình, nhưng thật ra, Nhị đã công bố một số phần trên tạp chí Văn học của Viện Văn học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam như bài Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao dân ca trữ tình, tạp chí Văn học số 1/1997, bài Thời gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình, tạp chí Văn học số 4/1998 v.v…

Về nước, khi công cuộc Đổi mới đất nước đã/đang tiến hành, Nhị nhập cuộc và dần được khẳng định. Làm chủ nhiệm khoa Ngữ Văn rồi lên thẳng làm hiệu trưởng trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1999.Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Biết bao công việc khó khăn, vất vả, mà những khó khăn, vất vả này không giống với khó khăn vất vả của nghiên cứu khoa học, đặt lên đôi vai của một nhà khoa học.

Những năm tháng ấy, thi thoảng chúng tôi vẫn trò chuyện với nhau, vì cùng làm công tác quản lý. Chỉ có khác là Nhị làm quản lý ở cơ quan giáo dục, còn tôi làm quản lý ở cơ quan văn hóa. Từ năm 2007, Nhị ra Hà Nội làm Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo rồi 2015 chuyển sang làm Chánh Văn phòng Hội đồng giáo sư Nhà nước thì chúng tôi gặp nhau thường xuyên hơn trên điện thoại và đến nhà, ra quán cà phê, quán ăn..

Năm 2008, người bạn thân nhất của chúng tôi: Trần Hòa Bình, đột ngột ra đi, Nhị động viên, ủng hộ tài chính để tôi làm xong cuốn sách Trần Hòa Bình tuyển tập tác phẩm. Nhị bảo:

- Mình bận lắm, việc hành chính tổ chức mà. Bền cố gắng, làm cả công việc của mình nữa. Phải làm sách cho Bình, để nó an lạc cõi vĩnh hằng. Ba chúng ta có trách nhiệm về nhau.

Và năm 2009, cuốn sách Trần Hòa Bình, tuyển tập tác phẩm do Nhị, tôi, Bùi Quang Thanh và gia đình chuẩn bị bản thảo đã được nhà xuất bản Hội nhà văn công bố. Sách dày 880 trang khổ 16x24.

Với Nhị, tôi hiểu, từ năm 2007 đến khi năm 2019, Nhị sống như một anh lính nhảy dù ở Hà Nội, thực cam go. Vợ con thì ở thành phố Hồ Chí Minh, công việc quản lý ở một cơ quan quản lý vĩ mô thực sự vất vả, thách thức, nên không có nhiều thời gian vật chất dành cho nghiên cứu văn học dân gian. Nhị dặn tôi: "Bền có sách mới về văn hóa học, nhớ gửi cho mình nhé."

Có lần Nhị bảo: - Mình hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ về văn học dân gian biển miền Trung, có tài liệu gì, Bền gửi cho mình nhé.

2-

Mãi đến khi Nhị ra làm Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, tôi mới có dịp đi cùng Nhị về thăm quê Nhị: Thôn Quả Linh, xã Thành Lợi huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Trên đường về, tôi nhớ mấy chục năm trước cậu bé làng Gạo (Kẻ Gạo) đi học ở trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong ở thị xã Nam Định, ắt vất vả, bởi làng Quả Linh cách thị xã Nam Định chừng 8 km. Chưa kể, những năm ấy là giặc Mỹ ném bom miền Bắc, Nhị cùng bạn bè và các thầy cô giáo phải đi sơ tán, không giảng dạy và học tập tại thành phố Nam Định.

Trước đó, từ năm 1991 đến khi ấy, tôi đã khá nhiều lần về nghiên cứu ở huyện Vụ Bản, nhưng chưa về xã Thành Lợi, cũng như thôn Quả Linh quê Nhị. Khi làm phản biện cho tập Văn hóa Xã hội của bộ Địa chí Nam Định do các đồng nghiệp ở trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, tôi đã biết Quả Linh là tên chữ, tên hành chính, tên cổ là Cảo Linh, còn tên nôm của làng là làng Gạo (Kẻ Gạo). Đây là làng rộng nhất, đông người nhất của xã Thành Lợi. Trước đây làng có nghề dệt. Thời bao cấp, cùng sự phát triển của nhà máy dệt Nam Định, nhiều gia đình ở đây làm nghề dệt. Làng có một lễ hội mà dân làng gọi là lễ hội Thái bình xướng ca. Truyền thuyết ghi rằng dân làng có công tải lương giúp vua Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông, nên vua ban thưởng cho làng mở hội Thái bình xướng ca/ Ca khúc thái bình như câu ca ở vùng này:

Vua Trần có lệnh tuyển bin

Đánh giặc Nguyên thắng, Thái bình xướng ca

Ba năm một lệ làng ta

Dần, Thân, Tỵ, Hợi, hát ca vui mừng.

Có thể nói, làng Gạo (Kẻ Gạo) tức thôn Quả Linh, xã Thành Lợi của Nhị là một làng văn hóa dân gian đa dạng, phong phú về loại hình, thể loại, sâu sắc về giá trị, nói khác đi tý chút là làng khá đặc biệt. Phải chăng, chất Quả Linh thấm đẫm trong người khiến Nhị đã lựa chọn văn học dân gian làm lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu của cả cuộc đời. Có thể có người sẽ nói đó là suy diễn của tôi nhưng tôi nghĩ, trong tiềm thức, thậm chí là vô thức của Nhị, chất Quả Linh, chất văn hóa dân gian thấm đậm.

Hành trình của Nhị từ khi dời cánh cửa của khoa Ngữ Văn, trường Đại học sư phạm Hà Nội 1 tháng 9/1977 và cuối năm 1980 cho đến bây giờ, vẫn là gắn bó với văn học dân gian. Danh mục các công trình khoa học của Nhị do trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh công bố năm 2001 có 39 công trình thì có tới 36 công trình về văn học dân gian. Từ luận văn Cao học bảo vệ tại Khoa Ngữ Văn trường Đại học sư phạm Hà Nội 1 đến luận án phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ), rồi luận án tiến sĩ (nay là tiến sĩ khoa học) Nhị đều làm về văn học dân gian.

Nói cách khác, vùng nghiên cứu của Nhị là văn học dân gian. Thầy giáo Bùi Mạnh Nhị là thầy giáo giảng dạy và nghiên cứu văn học dân gian, tức là nghề và nghiệp của Nhị là nghiên cứu giảng dạy văn học dân gian cho những sinh viên đại học sư phạm, chuyên ngành ngữ văn. Tâm sự của Nhị: “Văn học đối với tôi là đam mê, là nghề, là nghiệp, là cõi thiêng. Văn học nâng con người trưởng thành hơn, luôn gọi ta phía trước". Quả là được Nhị thực hiện trong hành trình của cuộc đời.

Trong cương vị người giảng viên đại học, tôi và Nhị giống nhau , sinh viên của chúng tôi khi ra trường, họ làm thầy, cô giáo ở các trường phổ thông trung học và phổ thông cơ sở ở Nam Bộ. Nhưng ở vị trí này, Nhị gắn bó chặt chẽ với họ, khi viết những bài giảng dạy văn học dân gian cho họ sử dụng trong nhà trường. Chính ở vị trí này, Nhị lại là một thầy giáo xuất sắc.

Năm 1988, Nhị đã hoàn thành bản thảo và Sở Giáo dục An Giang đã xuất bản cuốn sách Phân tích tác phẩm văn học dân gian vào tháng 10 năm 1988. Sách dày 118 trang, khổ 13x19, với số lương in 10.000 cuốn. Nhận sách Nhị tặng ngay khi vừa xuất bản: tháng 10/1988, tôi nể phục người bạn của mình. Nhị nắm rất rõ môn Văn lớp 6,7 ở trường trung học cơ sở có tới 20 truyện cổ,54 bài ca dao,47 câu tục ngữ, ở lớp 10 trường phổ thông trung học, thầy và trò dạy và học gần suốt học kỳ 1 các tác phẩm văn học dân gian.

Đáng nể là tư duy của người thầy giáo Bùi Mạnh Nhị, bởi Nhị xác định: “Phương pháp phân tích một đối tượng bao giờ cũng phải dựa trên những đặc trưng của đối tượng đó” (Lời tác giả in trong Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Sở giáo dục An Giang xb,1988, tr.5). Chắc là tác phẩm rất hữu ích trong nhà trường, nên năm 2012, nhà xuất bản Giáo dục cho in tác phẩm này của Nhị với sự nâng cao chất lượng của nội dung tác phẩm, cũng với tên Phân tích tác phẩm văn học dân gian như năm 1988 mà Nhị đã công bố. Sách dày 292 trang, khổ 14,3x20,3, gồm ba phần: Phần một: Phân tích tác phẩm văn học dân gian trong chương trình ngữ văn trung học; Phần hai: Phân tích một số tác phẩm văn học dân gian trong chương trình trung học trước đây; Phần ba: Một số bài viết về văn học dân gian, sách được in 8000 cuốn. Cả hai lần hai cuốn sách đều được in với một số lượng lớn. Sức lan tỏa của hai cuốn sách ắt sâu và rộng trên địa bàn cả nước.

Năm 1999, Nhị chủ biên, cùng hai tác giả Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp công bố tác phẩm Văn học dân gian những công trình nghiên cứu dày 402 trang khổ 16x24 và năm sau, năm 2000, Nhị lại chủ biên, cùng hai tác giả Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp công bố tác phẩm Văn học dân gian, những tác phẩm chọn lọc dày 480 trang khổ 16x24 ở nhà xuất bản Giáo dục. Không phải ai là thầy giáo nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian cũng làm được như Nhị! Từ năm 1988 đến nay, tôi rất nể phục việc làm này của Nhị, bởi cùng nghiên cứu văn học dân gian mà tôi không làm được như Nhị.

Tôi biết sáng tác thơ là đam mê với Nhị, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đại học, đã có nhiều bài được in trên các tạp chí, báo. Nhiều lần, anh Châu La Việt, người bạn cùng học Khoa Ngữ Văn của trường Đại học sư phạm Hà Nội 1 cùng Nhị và tôi. Rồi Nguyễn Kim Hồng, cùng họ và tôi nhắc nhở và mong muốn Nhị tập hợp các bài thơ in thành tập thơ. Nhưng Nhị giống người bạn thân của Nhị và tôi: Trần Hòa Bình, sáng tác nhiều thơ, có nhiều bài lắng đọng trong tâm trí bạn đọc, nghe chúng tôi nói đều ậm ừ có vẻ lắng nghe, nhưng vẫn không cho in thành tập thơ. Bởi thế, khó mà biết Nhị có bao nhiêu bài thơ trong bản thảo. Tôi biết, khi làm nghiên cứu sinh tiến sĩ, tiến sĩ khoa học ở Liên Xô trước đây và Liên bang Nga sau năm 1991, Nhị vẫn sáng tác thơ và có thơ in trên tạp chí Người bạn đường của Hội văn học nghệ thuật Việt Nam tại Liên Xô.

Biết nhau từ khi tham gia Câu lạc bộ sáng tác và nghiên cứu văn học của khoa Ngữ Văn khóa 1973-1977 trường Đại học sư phạm Hà Nội 1, trở thành bạn thân, tôi nhớ nhiều bài thơ (không kể hai bài thơ được giải thưởng của Hội Văn nghệ Hà Nội và Hội Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh) của Nhị như “Bài ca về chiếc lá non”, “Chiếc vòng tay”, “Tôi vốc nước Đồng Nai”, “Với Sài Gòn”, “Tôi có một Hải Phòng” v.v… Đến công tác ở các vùng quê, Nhị đều có thơ, bởi cảnh và người của vùng quê thu hút tâm hồn thơ của người thầy giáo, rồi người công chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Khi đến Đà Lạt, Nhị có “Ký họa Đà Lạt”, khi đến trung du, Nhị có “Đêm trung du”, khi đến thăm tỉnh An Huy (Trung Quốc), Nhị có bài tứ tuyệt “Thăm mộ chôn mũ áo làm quan của Lý Bạch”. Nhưng nhiều hơn cả trong thơ Nhị vẫn là những bài thơ thể hiện tâm tư, cảm xúc của chính Nhị như các bài “Những bài ca”, “Những vì sao và những con sóng” v.v… Nhiều hơn cả vẫn là thơ tình. Thật ra, đã là người làm thơ, trong cuộc đời ai chả có một vài bài thơ tình. Nhị có khá nhiều bài thơ tình như bài “Anh viết tên em”, “Đợi em về”, “Tình yêu”, “Chỉ tình yêu còn mãi” v.v… và bài tôi thích lại là bài Thơ viết trên máy bay:

Em biết không

Bầu trời cô đơn lắm

Trên máy bay không ai nói một lời

Vẫn thời khắc trần gian sao trôi rất chậm

Anh muốn lần về mặt đất đã xa xôi

Em ở đâu

Điểm tựa của đời anh để anh thôi chới với

Xung quanh anh bốn bề mây nổi

Em gánh nỗi lo lên cả bầu trời

Tôi nhớ, sau khi tốt nghiệp nhận bằng tiến sĩ khoa học ở Nga về, ra Hà Nội, Nhị điện thoại hẹn đến nhà tôi ở làng Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa,q uận Đống Đa, uống rượu. Sau một vài ly, Nhị bảo:

- Giờ đọc thơ, đọc thơ tình nhé.

Rồi Nhị đọc liên tục ba bốn bài thơ tình, mà bây giờ tôi không nhớ tên từng bài. Tôi hiểu những năm học tập làm nghiên cứu sinh ở bên ấy, thân một mình ở xứ người, cô đơn là tâm trạng thường xuyên và tình cảm luôn dành cho vợ con, nhưng vẫn viết thơ tình. Tôi biết nhiều bạn tôi khi viết thơ tình, đôi khi gặp “sự cố” với người vợ. Nhưng Nhị thì không, vì trong tâm hồn Nhị, tôi nghĩ, chỉ có bạn Trần Quỳnh Nga, người vợ Nhị yêu quý và cô con gái Bùi Trần Quỳnh Ngọc, sau này thêm cô con gái Bùi Trần Bảo Ngọc. Bởi thơ tình của Nhị, chả có bài nào có thể gây ra “sự cố” cả.

Nói đến thơ Nhị, thơ tình của Nhị, nhiều người nhớ ngay đến bài Vô đề của Nhị. Nhiều người hay nhắc đến câu “Rượu này có nước mắt pha”, anh Phạm Văn Tình, phó giáo sư tiến sĩ ngôn ngữ học, cùng quê Nam Định với Nhi, bạn với Nhị và tôi đã phân tích từ góc tiếp cận ngôn ngữ học câu thơ này rất sâu sắc. Nhưng tôi thì thích hai khổ thơ:

Rót cho đầy vĩnh cử

Uống cho cạn thoáng qua

Sao em nhìn ta bật khóc

Rượu này có nước mắt pha

Bởi hai khổ thơ bật ra từ tâm thức, hình như là vô thức của Nhị. Nỗi đau đời định dùng rượu làm vợi bớt thì ngụm rượu lại làm tăng thêm. Rượu hay nước mắt nuốt ngược vào tâm khảm, quá đau đớn. Tôi chợt nhớ ảnh cụ Nguyễn Khuyến với ly rượu nhỏ bưng trước mặt thì bao nỗi đau đời nhờ ly rượu nhỏ nén vào trong lòng. Với Nhị, ngụm rượu nước mắt càng làm nỗi đau thêm sâu lắng, đau đớn. Phải chăng, thơ tình của Nhị là như vậy. Con chữ là biểu hiện bên ngoài thôi. Các bài thơ của Nhị cho tôi suy nghĩ ấy.

-4-

Tôi nhớ anh bạn vong niên của tôi và Nhị cùng nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian với Nhị ở khoa Ngữ Văn tại Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh: anh Nguyễn Tấn Phát, anh từng là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, giám đốc Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, từng tâm sự :

- Làm quản lý khổ nhất và khó nhất là ứng xử Bền ạ.

Kế tiếp các anh đi trước, tôi và Nhị giống nhau, trong cuộc đời không chỉ làm thầy giáo mà còn làm công việc của nhà quản lý. Tôi thì 19 năm giữ trọng trách Tổng biên tập, rồi Viện trưởng hai cơ quan của Bộ Văn hóa Thông tin trước đây và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hiện nay. Khi thôi làm quản lý, tạm biệt chiếc ghế chức quyền, tôi đã viết những dòng thơ:

Ngày mai ta về

Thôi khỏi diễn những vai không hề mong muốn

Khỏi phải nói những lời không tự trái tim

Làm hiệu trưởng một trường đại học sư phạm, rồi Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ ở Bộ Giáo dục và Đào tạo, rồi Chánh Văn phòng hội đồng giáo sư nhà nước, tôi vẫn nghe bạn bè nhận xét: Nhị lịch lãm, nền nã trong ứng xử . Tôi thì tôi hiểu, Nhị thích ứng với công việc này, mọi sự không bằng lòng, khó chịu đều nén vào trong, không bộc lộ ra trong nét mặt và lời nói cũng như hành động. Trong các bài thơ của Nhị, tôi rất lưu ý bài Chia tay bạn, và thích nhất là khổ kết:

Chỉ khi bạn thích danh thích lộc

Tôi chẳng tìm đâu, chẳng đến đâu

Có nhớ thương nhau đừng buồn bực

Đứa bạn hàn vi thích cứng đầu...

Quả tình đây là tính cách của Nhị. Ban đầu khi gặp nhau ở Câu lạc bộ sáng tác và nghiên cứu văn học năm 1974, tôi cảm nhận Nhị là người mềm mỏng, nhẹ nhàng. Nhưng một hôm, tôi, Trần Hòa Bình, cùng Nhị và một anh bạn (tôi xin phép không kể tên) ở khoa Văn trường Đại học Tổng hợp, đã có bài thơ được giải khuyến khích của cuộc thi thơ do báo Văn Nghệ tổ chức, đi chơi ở mấy tòa soạn báo trong nội ô về, xuống ăn trưa ở nhà ăn của sinh viên.

Đứng trước bàn ăn nhìn mâm cơm, anh bạn kia, ra vẻ bực bội, nói:

- Các ông mời tôi ăn thế này à?

Lần đầu tiên, có lẽ là duy nhất trong cuộc đời, tôi thấy Nhị đỏ mặt, nói to như quát:

- Cơm sinh viên, có thế thôi, ông không ăn thì về, đi về !!!

Rồi không nói gì nữa. Trần Hòa Bình, tôi và Nhị lặng lẽ ăn hết bữa cơm, rồi ai về phòng nấy ở nhà A7. Bao năm sau, gặp lại, chả khi nào tôi thấy Nhị nói to hay giận dữ. Chả biết Nhị có học thiền hay tập thiền không, nhưng cuộc đời làm quản lý, phải chịu đựng, chứ cậu bé con em làng Gạo (Kẻ Gạo) thích cứng đầu. Vất vả, khổ cực của những năm tháng làm công tác quản lý không hiện hình trên trang thơ, trên bài nghiên cứu văn học dân gian. Nhất là không làm ảnh hưởng xấu đến ai, nên Nhị luôn được nhiều người quí mến, tôn trọng. Là người từng làm việc với anh Trần Văn Nhung, giáo sư, tiến sĩ khoa học, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, nguyên Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội đồng giáo sư nhà nước, tôi biết anh Trần Văn Nhung rất quí mến và tôn trọng Nhị, chả phải do Nhị cùng quê Nam Định với anh Nhung, mà anh Nhung tôn trọng tài, tâm của Nhị, quí mến cách ứng xử của Nhị trong đời thường và trong công tác quản lý.

-5-

Thời gian như chiếc lá rơi bay vèo trong gió. Năm 2022, chúng tôi tổ chức kỷ niệm 45 năm ngày ra trường. Các bạn cùng khóa K23 (1973-1977) đều bảo 320 sinh viên của 9 lớp khoa Ngữ Văn hồi ấy có hai người thành đạt nhất là Bùi Mạnh Nhị và Nguyễn Chí Bền. Tôi trả lời, chắc Nhị đồng ý: tôi và Nhị là người may mắn hơn các bạn thôi. Trong thâm tâm, tôi luôn nghĩ, Nhị đã phải vượt lên mình, tự vượt lên mình rất nhiều. Trên giảng đường, quí thầy cô giáo dạy chúng tôi ra làm thầy, cô giáo ở trường phổ thông trung học. Khi làm giảng viên ở trường đại học, chúng tôi đã tự vượt lên mình. Khi sáng tác thơ còn có chút thiên bẩm, nhưng khi làm nghiên cứu khoa học, chúng tôi phải tự vượt lên mình. Những bài học của thầy Lê Trí Viễn, thầy Nguyễn Văn Hạnh, giúp chúng tôi những kiến thức phương pháp ban đầu để đi vào con đường nghiên cứu đầy gian nan, vất vả, chẳng phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió.

Nhiều khi, tôi không muốn dùng chữ thành đạt, mà dùng chữ thành công. Có những việc, chúng tôi thành công. Tôi lại nhớ ý tứ của anh Nguyễn Xuân Kính, cùng làm nghiên cứu sinh ở Liên Xô trước đây như Nhị về văn học dân gian, bạn của cả Nhị và tôi, khi viết về tôi.

Anh Kính viết : “-Tôi có đọc ở đâu đó câu này: Nước trong quá thì không có cá. Nếu nhìn nhận người khác nghiêm khắc, xét nét quá thì không có bạn”.

Mấy chục năm là bạn, bạn thân, chả bao giờ tôi nhìn Nhị nghiêm khắc, xét nét. Tôi có biết mong muốn của bạn bè với Nhị ,về Nhị, bởi Nhị là người được đào tạo đầy đủ bài bản về nghiên cứu văn học dân gian, lẽ ra phải viết được,công bố được nhiều hơn các công trình về văn học dân gian. Đã tự vượt lên mình nhiều lần, Nhị đã cắm được nhiều cột mốc trên hành trình là một thầy giáo nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian, Nhị đã có nhiều bài thơ sống cùng bạn đọc và thời gian. Ra đi từ làng Gạo (Kẻ Gạo), từ mái trường Đại học sư phạm Hà Nội, cậu bé Bùi Mạnh Nhị, sinh viên Bùi Mạnh Nhị bây giờ là PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị, nguyên Hiệu trưởng, nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, nguyên Chánh Văn phòng Hội đồng giáo sư nhà nước, Nhị đã tạo ra thành công cho mình từ mồ hôi, trí tuệ của mình, luôn nhìn về phía trước, đứng thẳng và cứng đầu. Có phải ai cũng làm được thế đâu. Khi viết những dòng này về Nhị, tôi luôn nghĩ bộ ba Bùi Manh Nhị, Trần Hòa Bình(1956-2008) Nguyễn Chí Bền luôn quí hóa những lời chúng tôi nói về nhau, viết về nhau. Chắc rằng Nhị đồng thuận với tôi những trang bản thảo này. Bởi chúng tôi là bạn thân từ thuở hàn vi, trai trẻ mà giờ tóc đã phai màu, điểm bạc./.

GS TS Nguyễn Chí Bền

Trầm tích trên da
Trầm tích trên da

“Hắn kéo hết ga, tiếng rung lắc của mấy vòng sắt sáu treo ở móc sau yên xe phát ra nghe lèng xèng tạo nên một thứ âm...

Tin liên quan

Tin mới nhất

Đường lên Điện Biên hào hùng và đầy xúc cảm qua 70 tác phẩm mỹ thuật

Đường lên Điện Biên hào hùng và đầy xúc cảm qua 70 tác phẩm mỹ thuật

Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 – 07/5/2024), Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tổ chức triển lãm “Đường lên Điện Biên”, giới thiệu tới công chúng 70 tác phẩm hội họa, đồ hoạ, điêu khắc, ký hoạ, áp phích, sáng tác trong giai đoạn 1949 - 2009 của 34 tác giả, được lựa chọn trong bộ sưu tập của Bảo tàng.

8 thành phần dưỡng da cực tốt giúp nàng 'trẻ mãi không già'

8 thành phần dưỡng da cực tốt giúp nàng 'trẻ mãi không già'

Nhiều người có thể thắc mắc có những chất dinh dưỡng nào giúp nuôi dưỡng làn da. Và nếu chọn sử dụng sản phẩm dưỡng da thì phải chọn những loại chất dưỡng nào? Dưới đây là 8 loại vitamin giúp da khỏe đẹp từ bên trong mà bất cứ cô gái nào cũng nên biết.