Đôi điều về kịch bản Chèo Nguyễn Văn Cừ - tuổi trẻ chí lớn

Nhà hát Chèo quân đội công diễn vở “Nguyễn Văn Cừ - Tuổi trẻ chí lớn”, tác giả Lê Thế Song - Tự Long, đạo diễn NSND Tự Long. Truyện kịch là lát cắt về hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, kể từ khi tham gia đấu tranh chống thực dân, phong kiến bị đuổi học khỏi trường Bưởi, Hà Nội, về quê hương ở Từ Sơn, Bắc Ninh dạy học, vận động quần chúng các làng quan họ đấu tranh chống thực dân phong kiến và tham gia phong trào “Thanh niên cách mạng đồng chí hội”.

Sau bị địch truy lùng ráo riết, đồng chí xuống vùng mỏ Quảng Ninh, vận động công nhân tham gia phong trào “Thanh niên cách mạng đồng chí hội”, đấu tranh đòi giảm giờ làm tăng tiền lương người lao động, ra tờ báo Than, thành lập Chi bộ Cộng sản vùng mỏ. Trong khuôn khổ bài báo nhỏ, chúng tôi đề cập đôi điều về kịch bản này.

Đôi điều về kịch bản Chèo Nguyễn Văn Cừ - tuổi trẻ chí lớn - 1

Cảnh trong vở diễn “Nguyễn Văn Cừ: Tuổi trẻ chí lớn”

Xuân sắc: Kịch bản sân khấu truyền thống viết về đề tài chiến tranh cách mạng đã khó, về lãnh tụ cách mạng càng khó hơn. Bởi rất dễ bị căng cứng, hô khẩu hiệu. Song các tác giả kịch đã cố gắng từ việc xây dựng nhân vật. Chẳng hạn các tác giả xây dựng nhân vật theo hầu cậu Cừ học trường Bưởi, sau về quê, rồi theo ra vùng mỏ, không khiên cưỡng, hợp lý mà rất chèo.

Thực tế, ngày 15/2/1931, trên đường công tác từ Cẩm Phả về Hòn Gai, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị mật thám Pháp bắt, giam giữ qua các nhà lao Hòn Gai, Hải Phòng, Hỏa Lò - Hà Nội. Sau bị lưu đày Côn Đảo. Người viết báo, viết sử sẽ phản ảnh chân thực chi tiết nêu trên. Với nghệ thuật sân khấu, các tác giả đã hư cấu tình huống Nguyễn Văn Cừ sa vào tay giặc trong hoàn cảnh giặc truy lùng khắc nghiệt, nếu công nhân không chịu khai nộp đồng chí, thì giặc sẽ bắn giết toàn bộ công nhân khu mỏ.

Trước tình thế đó, Nguyễn Văn Cừ tự dấn thân cho giặc để bảo toàn tính mạng công nhân. Tình huống này không mới, bởi Nguyễn Cao có tình tiết tương tự đã được phản ánh trong tập truyện ngắn “Sao khuê xứ Bắc”, tác giả Huy Cờ, Nhà xuất bản Dân trí, 2019. Song, các tác giả xử lý tình huống kịch thích hợp, đã khắc họa hình tượng Nguyễn Văn Cừ - người chiến sỹ cộng sản dũng cảm, kiên cường, vì bình yên cuộc sống của nhân dân.

Đôi điều về kịch bản Chèo Nguyễn Văn Cừ - tuổi trẻ chí lớn - 2

Đặc biệt kịch bản còn đáp ứng một trong những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật sân khấu chèo về thể hiện các cung bậc tình cảm “Thất tình” (Hỷ, lạc, ai, nộ, ái, ố, dục). Nghĩa là hàm chứa đủ các yếu tố yêu thương, chết chóc, phẫn nộ, oán hờn, khát vọng, mừng vui. Ngoài ra, cáctác giả đãmạnh dạn kết hợp Chèo với dân ca Quan họ, làm cho kịch bản đượm chất trữ tình. Việc kết hợp dân ca Quan họ còn mang hàm ý giới thiệu một không gian văn hóa mà ở đó chính là quê hương đồng chí Nguyễn Văn Cừ. Những sáng tạo không ngừng, các tác giả đã tạo nên xuân sắc kịch bản.

Sỏi sạn: Nghệ thuật là con dao hai lưỡi, đòi hỏi người cầm bút phải cẩn trọng. Không rõ các tác giả hạn hẹp tri thức về thân thế sự nghiệp cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, hay do cảm tính mà trong một lớp kịch ở cảnh I, Nguyễn Văn Cừ nói: “Tôi sẽ về quê để dạy học. Sẽ tiếp tục truyền bá tư tưởng Thanh niên cách mạng đồng chí hội đến tầng lớp thanh niên ở nông thôn...”.

Lời thoại cho thấy Nguyễn Văn Cừ làm giáo viên - trí thức. Nhưng trong cảnh này, các tác giả lại để Nguyễn Văn Cừ tay không, dùng võ thuật đánh bại hai tên sỹ quan Pháp có súng ngắn. Như vậy trở thành nhân vật “Võ lâm, hảo hán”, xa lạ với hình tượng Nguyễn Văn Cừ trí thức, sai tính cách vốn có của nhân vật lịch sử.

Cảnh VII, một lớp kịch, tên sỹ quan Pháp nói: “Lính đâu! Hãy nghe cho rõ đây. Hai ngày nữa tất cả tù chính trị ở Côn Đảo này sẽ được trả tự do. Nhưng Nguyễn Văn Cừ, nước mẹ đại Pháp kết án tử hình bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, rõ chưa?”. Sau lời tuyên bố của tên sỹ quan Pháp, bốn người trong khám tù chui ra, mỗi người đọc một câu trong tác phẩm “Tự chỉ trích” như hô khẩu hiệu, tiếp đến Nguyễn Văn Cừ nói: “Tôi, Chí Cường: Những điều này được viết từ thực tiễn tư tưởng, từ sự kiện trung, mong muốn Đảng được mạnh mẽ...”.

Như vậy tác phẩm “Tự chỉ trích” được viết trong tù, không hợp lý, thiếu tính thuyết phục. Bởi lẽ, năm 1936 do sự thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, chính phủ của Mặt trận Bình dân Pháp ra lệnh tổng ân xá tù chính trị ở Đông Dương. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ và nhiều đồng chí được trở về đất liền và thả tự do. Đồng chí về Hà Nội bí mật hoạt động ở nhiều nơi và thường xuyên liên lạc với Trung ương ở Sài Gòn. Thời gian này, đồng chí viết hàng trăm bài báo giàu tính chiến đấu và hoàn thành tác phẩm “Tự chỉ trích” theo tinh thần Bonsevik vào khoảng tháng 6/1939, rồi cử người đưa vào Sài Gòn xuất bản vào tháng 7/1939.

Ngoài ra, các tác giả cũng hạn hẹp tri thức về văn hóa quan họ. Cảnh II, có đoạn Thầy đồgiải thích về dân ca quan họ: “Người quan họ thường không lấy nhau... Vì hát quan họ cốt là ở cái duyên, mà khi người quan họ lấy nhau rồi, chuyện sẽ không còn, tiếng hát không còn đằm thắm, không còn trữ tình nữa...”.

Thầy đồ giải thích sai. Bởi xưa điều này chỉ quy địnhvới liền anh, liền chị ở hai làng quan họ kết bạn. Có nơi gọi “kết chạ”. Đã là chạ anh, chạ em thì không lấy nhau, chứ không phải liền anh, liền chị ở tất cả các làng quan họ không được lấy nhau. Một lớp kịch khác, Nguyễn Văn Cừ nói: “Thầy ơi! Miền quê ta có tới 49 làng quan họ, con đã đi làm phong trào bằng cách dạy hát...”. Nên nhớ những năm 70 của thế kỷ XX, Ty Văn hóa Hà Bắc nhiều lần bàn thảo xác định “tiêu chí” làng quan họ. Nhờ có “tiêu chí” làm căn cứ để điều tra, xác định được 49 làng quan họ.

Lại một lớp kịch ở cảnh VII, tên sỹ quan Pháp nói: “Tôi còn biết cả hát quan họ nữa đấy”. Nói rồi y hát bài “Bèo dạt mây trôi”. Nghe xong, Nguyễn Văn Cừ cũng hát ca khúc Pháp, khiến tên sỹ quan Pháp khâm phục: “Tuyệt vời, tuyệt vời! Vậy là ông Cừ cũng biết cả âm nhạc Pháp”. Nguyễn Văn Cừ nói: “Cũng như ông. Ông biết cả hát quan họ”.

Về bài hát này, NSƯT Quý Tráng, nguyên Giám đốc Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh cho biết, nhiều năm liền về các làng quan họ sưu tầm, học các nghệ nhân truyền dạy bài hát quan họ truyền thống, không có bài “Bèo dạt mây trôi”. Có thể, thời thuộc Pháp có nhạc sỹ nào đó sáng tác bài này.

NSƯT Vũ Tự Lẫm - diễn viên quan họ gạo cội nói: “Không nghệ nhân nào của các làng quan họ nói bài “Bèo dạt mây trôi” là bài hát quan họ. Có điều Đài Tiếng nói Việt Nam, lại giới thiệu “Bèo dạt mây trôi” - dân ca quan họ Bắc Ninh. Vì vậy, một số thính giả lầm tưởng mà thôi”.

Ông Nguyễn Trọng Hải - người nghiên cứu dân ca quan họ cho biết, bài “Bèo dạt mây trôi” thuộc loại hát “Diễu”, xuất xứ vùng Văn Giang, Hưng Yên. Thời thuộc Pháp được nhạc sỹ Minh Châu (Yên Phong, Bắc Ninh) phổ nhạc. Như vậy, trong tác phẩm, Nguyễn Văn Cừ nói bài “Bèo dạt mây trôi” là quan họ thì không hiểu văn hóa quan họ của chính quê mình, sao có thể làm nên nghiệp lớn?

Các tác giả viết lời thoại thiếu cẩn trọng. Chẳng hạn một lớp kịch ở cảnh IV, tuyên truyền trong phong trào công nhân, Nguyễn Văn Cừ nói: “Chúng ta cũng cần phải đổi mới tư duy...”. Nghe Nguyễn Văn Cừ tuyên truyền, công nhân áo xanh nói: “Phải nói rằng bác nói hay như đài!”. Lời thoại đó phần nào làm giảm tính chân thực lịch sử.

Đáng tiếc, các tác giả không sử dụng tính cách điệu, ước lệ của nghệ thuật chèo, đã tả thực lớp kịch Nguyễn Văn Cừ đánh hai sỹ quan Pháp và bọn cai ngục tra tấn dã man Nguyễn Văn Cừ. Văn học chủ yếu sử dụng văn xuôi, không dùng văn vần chất thơ, biền ngẫu như chèo truyền thống, có thể xem đó là kịch hát mới, kịch pha ca, hoặc kịch nói cắm hát chèo, hát quan họ. Những hạn chế nêu trên như những viên sỏi sạn khiến kịch bản không thể thuyết phục.

Đôi điều về kịch bản Chèo Nguyễn Văn Cừ - tuổi trẻ chí lớn - 3

Thay lời kết: Quá trình phân tích trên, cho thấy các tác giả có nhiều cố gắng, tạo ra xuân sắc kịch bản. Song những sai sót không nhỏ, làm cho kịch bản chưa xứng tầm vóc đồng chí Nguyễn Văn Cừ. Thiết nghĩ Hội đồng Nghệ thuật Nhà hát Chèo quân đội, cần tranh thủ sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, giúp các tác giả sửa chữa, nâng cao kịch bản, đúng với tầm vóc “Tuổi trẻ chí lớn” của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, rực rỡ như ánh sao băng tỏa sáng giữa trời Nam.

Thượng Luyến

Tin liên quan

Tin mới nhất

Giá trị đặc sắc của Di sản Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Giá trị đặc sắc của Di sản Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Gần dân, chăm dân – dân quý, dân thờ là yếu tố tạo nên giá trị đặc sắc của di sản tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Trong tâm thức dân gian, sự chăm lo và gắn bó gần gũi với số phận sinh tồn, làm ăn và phát triển của cộng đồng dân chúng từ các thế hệ vua Hùng cùng các bậc tiền nhân thuở xa xưa luôn luôn là “một sự thực lịch sử”, cần được ghi nhớ và tri ân.