“Lịch sử chữ quốc ngữ": Một thành tựu nghiên cứu đầy đủ nhất từ trước cho đến nay về lịch sử chữ quốc ngữ

“Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” của TS Phạm Thị Kiều Ly là tác phẩm có tầm vóc và bề thế nhất từ trước đến nay dựa trên nguồn tư liệu phong phú về lịch sử hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ, mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nên đọc để hiểu về nguồn cội chữ viết mà chúng ta đang dùng hằng ngày.

Tính đến nay, kể từ thập niên 20 của thế kỷ 17, chữ quốc ngữ đã có một lịch sử hình thành và phát triển khoảng 400 năm, đó là một hành trình đủ dài để một hệ thống ngôn ngữ được hình thành và phát triển trở thành ngôn ngữ viết chuẩn mực. Nó giống như một dòng sông thu nhỏ, âm ỉ chảy trong dòng lịch sử dân tộc, âm thầm và lặng lẽ bên cạnh chữ Nôm và chữ Hán. Kể từ năm 1919, tức mới chỉ khoảng 100 năm qua, chữ quốc ngữ mới được đón nhận và sử dụng rộng rãi bởi mọi thành phần người Việt.

“Lịch sử chữ quốc ngữ": Một thành tựu nghiên cứu đầy đủ nhất từ trước cho đến nay về lịch sử chữ quốc ngữ - 1

Tác phẩm được phát triển từ chính luận án tiến sĩ của TS Phạm Thị Kiều Ly, bảo vệ năm 2018 tại Đại học Sorbonne Nouvelle (Cộng hòa Pháp) và được trao giải thưởng luận án xuất sắc năm 2020 của GIS Asie (Groupement d’intérêt scientifique Études asiatiques - Nhóm nghiên cứu khoa học về châu Á).

Sau khi bảo vệ luận án, tác giả đã tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung luận án và xuất bản ở Pháp năm 2022 dưới tựa đề “Histoire de l’écriture romanisée du vietnamien (1615-1919)” (Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919”). Với tâm niệm cần phổ biến kiến thức khoa học tới đại chúng, năm 2023, cô cũng đã cùng họa sĩ Tạ Huy Long xuất bản cuốn truyện tranh về lịch sử chữ quốc ngữ dành cho trẻ em. Và năm 2024, đúng dịp kỷ niệm 400 năm giáo sĩ Alexandre de Rhodes và Maiorica đến Việt Nam, ấn bản tiếng Việt của công trình “Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” chính thức được xuất bản với 6 chương:

Chương 1: Quá trình mô tả các ngôn ngữ trên thế giới

Chương 2: Phiên âm tiếng Đàng Trong bằng chữ La-tinh (1615-1631)

Chương 3: Phiên âm tiếng Đàng Ngoài bằng chữ La-tinh

Chương 4: Hệ thống nguyên âm trong Dictionarium (Từ điển) của de Rhodes (1651) và chuẩn hóa chính tả

Chương 5: Chữ quốc ngữ thời kỳ Hội Thừa sai Paris (1658-1858)

Chương 6: Chữ quốc ngữ thời thuộc địa.

“Lịch sử chữ quốc ngữ": Một thành tựu nghiên cứu đầy đủ nhất từ trước cho đến nay về lịch sử chữ quốc ngữ - 2

Kế thừa và tiếp bước các thế hệ học giả tiền bối, tác giả đã dày công trang bị kiến thức về tiếng La-tinh, tiếng Bồ Đào Nha và về cổ văn châu Âu để có thể tiếp cận, sưu tầm và phân tích các văn bản được viết bằng tiếng La-tinh, Bồ Đào Nha, Ý nằm rải rác ở văn khố ở Roma, Paris, Lisbon, Ávila, và Madrid. Như cô đã từng chia sẻ với báo Người Đô Thị: “Tôi đã trải qua hầu hết những cung bậc cảm xúc của một người học trở thành nhà nghiên cứu chuyên nghiệp: hạnh phúc vì tìm được tài liệu, căng thẳng, lo âu dò dẫm tìm đường đi cho công trình của mình, mất ngủ. Hàng ngày mình đối mặt với chiếc máy tính của mình và các văn bản viết tay. Nhưng trên tất cả, tôi đã sống những năm tháng hạnh phúc cùng đề tài mình đam mê, sống trong tình bạn nghiên cứu ở khu Sorbonne, hay những trải nghiệm tuyệt vời khi đi tìm tài liệu ở các khu lưu trữ ở Roma (Vatican), Lisboa (Bồ Đào Nha), Madrid, Avila (Tây Ban Nha)”.

Có thể nói, đây là một thành tựu nghiên cứu đầy đủ nhất từ trước cho đến nay về lịch sử chữ quốc ngữ, với khung thời gian trải dài hơn 300 năm, từ năm 1615 - thời điểm các giáo sĩ dòng Tên tới truyền giáo ở Đàng Trong và kết thúc vào năm 1919 - năm cuối cùng của khoa thi Hội tổ chức ở kinh đô Huế.

Ngoài ra, dù cho sự hình thành chữ quốc ngữ nằm trong trào lưu chung của ngữ học truyền giáo, nhưng việc chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của Việt Nam là một trường hợp đặc biệt ở Đông Á, nên không thể thoát khỏi những tác động của bối cảnh chính trị, xã hội. Vì vậy, bên cạnh việc đúc kết lịch sử chữ viết trong quãng thời gian gần 300 năm, tác giả Phạm Thị Kiều Ly còn lồng vào đó những câu chuyện không kém phần quan trọng là lịch sử truyền giáo, lịch sử - chính trị Việt Nam từ phong kiến tới thời thuộc địa và bảo hộ, và phần nào đó là những câu chuyện về lịch sử báo chí, văn hóa, giáo dục ở Việt Nam một thời đoạn.

“Lịch sử chữ quốc ngữ": Một thành tựu nghiên cứu đầy đủ nhất từ trước cho đến nay về lịch sử chữ quốc ngữ - 3

Với cách viết như kể chuyện lịch sử lồng những phân tích ngôn ngữ chắc chắn cuốn sách “Lịch sử chữ quốc ngữ, 1615-1919” sẽ giúp cho mỗi người Việt Nam dễ dàng nắm bắt và hiểu hơn về nguồn cội chữ viết mình đang sử dụng hằng ngày.

Tác giả cố gắng đặt mình vào vị trí của độc giả và của người Việt Nam nói chung, để tự vấn mình những vấn đề xoay quanh lịch sử chữ viết mà chúng ta dùng hằng ngày: hoàn cảnh ra đời, quá trình hình thành, phát triển, cũng như những nhân vật có nhiều đóng góp quan trọng chữ quốc ngữ. Độc giả cũng có thể tìm thấy trong cuốn sách này những giải thích về logic chính tả của chữ quốc ngữ và cả những biến chuyển lớn lao trong đời sống xã hội, văn hóa - giáo dục…

TS. Phạm Thị Kiều Ly là giảng viên Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Thành viên Viện Nghiên cứu Lịch sử các lý thuyết ngôn ngữ - Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp.

Phạm Thị Kiều Ly bảo vệ luận án Tiến sĩ tại Đại học Sorbonne Nouvelle (Pháp) năm 2018, cô chuyên nghiên cứu về lịch sử chữ quốc ngữ và lịch sử ngữ pháp tiếng Việt. Cô quan tâm nghiên cứu lịch sử chữ viết của các dân tộc thiểu số cũng như di sản ngôn ngữ của các dân tộc đang có nguy cơ biến mất.

Phạm Thị Kiều Ly là tác giả, đồng tác giả của 3 tác phẩm:

Phạm Thị Kiều Ly. 2024 (sắp xuất bản). 100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ. Hà Nội: Omega+ và Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

Phạm Thị Kiều Ly & Tạ Huy Long. 2023. Người Việt gọi tôi là Cha Đắc Lộ - Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ. Hà Nội: Nhà xuất bản Kim Đồng.

Phạm Thị Kiều Ly. 2022. Histoire de l’écriture romanisée du vietnamien (1615-1919). Paris: Les Indes Savantes.

T.Linh

Tin liên quan

Tin mới nhất

Xây dựng cơ quan báo chí văn hoá và văn hoá của người làm báo

Xây dựng cơ quan báo chí văn hoá và văn hoá của người làm báo

Báo chí là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quan trọng trên mặt trận tư tưởng, văn hoá. Toàn bộ hoạt động của báo chí, truyền thông tác động trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng trên các lĩnh vực của đất nước, là chủ thể phản ánh đời sống xã hội; khơi nguồn, phổ cập những điều tốt đẹp, đồng thời đấu tranh chống cái xấu. Trong hoạt động báo chí, yếu tố nhân văn là tiêu