Bài thơ “Tây Tiến” - một kiệt tác của nhà thơ Quang Dũng
Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ “Tây Tiến” như sau: “Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh, anh viết bài thơ bồi hồi “Nhớ Tây Tiến” (Trần Lê Văn, Lời giới thiệu “Tuyển tập Quang Dũng”, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990, tr. 23).
Nhà thơ Quang Dũng tâm sự: “Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu Chanh (tên một tổng của Hà Nam thời Pháp). Tôi làm thơ rất nhanh, làm xong đọc trước đại hội, được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Nhân anh Nguyễn Huy Tưởng, đại biểu nhà văn ở Việt Bắc về dự, lúc đi, tôi gửi anh luôn. Sau anh Xuân Diệu cho in ngay ở tạp chí Văn nghệ” (Hà Minh Đức (biên soạn), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học, 1998, tr. 156.)
Như vậy, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng được viết trong một tâm trạng nhớ cồn cào, da diết của nhà thơ đối với đơn vị cũ của mình (không phải vô cớ mà lúc đầu, Quang Dũng đặt tên cho bài thơ của mình là Nhớ Tây Tiến - Ban đầu, bài thơ có tên là Nhớ Tây Tiến, in trong tập Thơ, Nxb Vệ quốc quân Liên khu III, năm 1949. Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, khơi nguồn cho cảnh vật và con người cùng với những kỉ niệm liên tiếp xuất hiện. Cả bài thơ như bồng bềnh trôi trong nỗi nhớ: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”; “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”; “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy/ Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ”...
*
Muốn hiểu được bài thơ Tây Tiến, trước hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của đoàn quân.
Nhà thơ Quang Dũng. Ảnh tư liệu
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào - Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền Tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất dũng cảm.
*
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.
Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.
Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
*
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, v.v… liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình khúc khủy, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nếu như câu thứ ba là nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét vẽ rất mềm mại (câu thứ tư toàn thanh bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng gam màu trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa,/ Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Thục đạo nan của Lí Bạch: “Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!” (Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh). Nhưng câu thơ của Quang Dũng không có cái ý vị trang nghiêm của đường lên trời trong thơ Lý Bạch, bởi “súng ngửi trời” là một hình ảnh ngộ nghĩnh, hóm hỉnh.
Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Vậy là, cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ v.v… Những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện ra một thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo núi rừng miền Tây của tổ quốc.
Đoạn thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai.
*
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của Tây Bắc. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay thế bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Và ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngây ngất, rạo rực. Hai chữ “Kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng Tây Bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (xiêm áo tự bao giờ), vừa e thẹn, vừa tình tứ (nàng e ấp) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (man điệu) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.
Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hòa hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.
Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Vậy mà cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (Có thấy hồn lau nẻo bến bờ). Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.
Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc. Ngoài làm thơ, viết văn, vẽ tranh, Quang Dũng còn sáng tác cả nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tâm hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.
*
Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của Tây Bắc (ở đoạn hai) đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể người lính Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc lên bức tượng đài tập thể đặng khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau, tạo nên vẻ bi tráng - cái thần thái chung của cả bức tượng đài.
Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài thơ Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,/ Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi”. Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh Vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi,/ Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao của người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh li kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng bịa đặt của nhà thơ mà chứa đựng một sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên cái oai phong, cái dữ dằn của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ.
Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy, đằng sau cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ, là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Vẻ đẹp hào hoa, mơ mộng lãng mạn của hình tượng người lính Tây Tiến khác hẳn với vẻ đẹp của người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Người lính trong bài thơ Đồng chí xuất thân từ nông dân, sinh ra và lớn lên ở những làng quê nghèo đói xơ xác. Bằng bút pháp hiện thực, Chính Hữu đã miêu tả một cách trần trụi những khó khăn, thiếu thốn, gian khổ của họ.
Người lính trong Đồng chí được tập trung khắc họa ở những điểm gần gũi giống nhau, cái thống nhất được nhấn mạnh hơn cái đặc biệt, cái bình dị được tô đậm hơn cái phi thường. Còn hình tượng người lính trong Tây Tiến được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn. Vẻ đẹp lãng mạn của họ thể hiện được tâm hồn đẹp đẽ, lòng lạc quan, yêu đời của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Trong gian khổ, họ vẫn hướng tới lý tưởng, tương lai. Đó là nguồn sức mạnh tinh thần giúp họ có thể vượt qua những khó khăn nghiệt ngã của hiện tại. Những mơ ước của họ không phải là giấc mộng “yêng hùng”, một thứ “mộng rớt” như ai đó đã từng phê phán. Đó là một nét tâm lý rất thực, là cách cảm, nếp nghĩ của cả một lớp người trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt một đi không trở lại của dân tộc.
Khi viết về người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy đau thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng. Khi tạc nên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, ngòi bút Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm đi nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh).
Ảnh minh họa
Những người lính Tây Tiến tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng vẫn chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những người tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Cái sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại như được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Trần Lê Văn cắt nghĩa câu thơ này là: áo bào được thay bằng chiếu. Nếu hiểu như vậy thì vừa không đúng với nghĩa của câu thơ vừa không diễn tả được sự hi sinh không cùng của người lính Tây Tiến. Nhà thơ Quang Dũng đã nói về câu thơ này như sau: “Tôi muốn gợi thêm một ý của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái gian khổ, thiếu thốn ở miền Tây. Ngay cả khi nằm xuống, nhiều tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa đường” [Hà Minh Đức (biên soạn), Nhà văn nói về văn, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.156]. Bút pháp lãng mạn ở đây vừa thể hiện được thái độ trân trọng vừa diễn tả được sự hi sinh không cũng của người lính Tây Tiến: chết mà không có được manh chiếu để liệm. Đó là sự hi sinh lần thứ hai, chết rồi còn hi sinh của họ. Cái bi thương ấy cũng có phần vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Trong cái âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
*
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa tô đậm thêm không khí chung của cái thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng cái linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Cái tinh thần: “nhất khứ bất phục hoàn” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt với những ngày Tây Tiến, những nơi mà Tây Tiến đã qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành một thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời thơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là một thành công có ý nghĩa tiên phong cho khuynh hướng viết về chiến tranh mà không cần né tránh những hi sinh, mất mát. Tây Tiến mang cái hào khí của lãng mạn một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc. Với Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bất tử bằng thơ về những người lính Tây Tiến, những người chiến sĩ vô danh, những người con ưu tú của dân tộc, trong đó, nhiều người đã hi sinh, quên mình vì nước. Tây Tiến là một bài thơ đặc sắc, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng, xứng đáng là một kiệt tác trong nền thơ Việt Nam hiện đại.

Nói đến Nguyễn Đình Thi là nói đến một nhà văn hoá lớn, một tài năng lớn, cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng...
Bình luận