Cao Bá Quát với núi Sài Sơn

“Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?” (Nguyễn Tuân - Vang bóng một thời)

Danh sỹ, nhà thơ lớn của dân tộc Cao Bá Quát (1808-1855) vào lúc đoạn cuối của cuộc đời lại gắn bó sâu sắc với phủ Quốc Oai, đất Sơn Tây, nơi mà có lần ông ca ngợi là đất của thi thư. “Sơn Tây chuộng mộc mạc, vẻ mềm mại của văn không hơn vẻ hoang dại của xứ này”.

Tôi ngậm ngùi đọc tiểu sử của ông cách nay mới chưa đầy hai trăm năm mà cũng còn sót lại đôi điều chưa rõ. Thơ văn của ông để lại người đời phải mất bao nhiêu công sức để sưu tập và xác định có đúng là của Cao Bá Quát hay không? Trời ơi! Cuộc dâu bể ở xứ sở này trong thế kỷ XIX trầm luân in dấu ấn vào từng phận người nhỏ bé, huống hồ là danh sĩ họ Cao.

Thời trẻ ông học rộng tài cao, vô cùng khoáng đạt nhưng lại là nạn nhân của chế độ thi cử đương thời. Năm 1831, khi thi hương tại trường thi Hà Nội Cao Bá Quát đậu Á Nguyên. Nhưng Bộ Lễ đã truất ông xuống hàng cuối bảng, sau đó mấy lần vào Huế thi hội đều không đậu. Năm 1840, triều đình gọi ông vào Huế làm hành tẩu ở Bộ Lễ - một chức quan tập sự để chờ bổ dụng khi thành đạt. Năm 1841, khi làm sơ khảo ở trường thi Thừa Thiên, Cao Bá Quát dùng muội đen chữa chỗ phạm húy (vốn là quy định kỳ quái của trường thi phong kiến) cho những quyển thi rất khá. Vì việc ấy Cao bị giam trong nhà lao ở Huế đến 2 năm. Sau đó lang bạt kỳ hồ, kể cả việc phục dịch cho đoàn sứ thần của triều đình đi Giang Lưu Ba (Indonesia), mãn hạn rồi lại về quê trong cảnh bần hàn. Năm 1847, họ Cao được triều đình mời vào Huế lần thứ hai, làm ở Hàn lâm Viện. Chuyên sưu tầm sắp xếp văn thơ cho Vua đọc. Kể cũng quan trọng và phải có tài năng lắm chứ. Năm 1850, Triều đình Huế điều ông về làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai. Trước khi về phủ Quốc, Cao Bá Quát có làm đề tựa cho tập thơ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, một thi sỹ nổi tiếng của hoàng tộc Nguyễn, con trai của vua Minh Mệnh.

Về Quốc Oai được một thời gian. Vào năm 1853, ông lấy cớ phải chăm sóc mẹ già không thụ chức quan theo dõi về giáo dục nữa. Cuối năm 1854, Cao Bá Quát khởi xướng và làm quân sư cho khởi nghĩa Mỹ Lương, một địa danh giờ còn một tên làng thuộc Chương Mỹ là làng Mỹ Lương, thời đó thuộc Phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Quân khởi nghĩa đánh phá phủ Ứng Hòa, huyện Thanh Oai, phủ Quốc Oai, thành Tam Dương Vĩnh Tường nhưng liên tiếp bị thất bại. Vào đầu năm sau, 1855, Cao Bá Quát chỉ huy nghĩa quân đánh phủ Quốc Oai lần thứ hai. Ông bị bắn chết tại trận tiền. Dã sử nói: “Triều đình Huế băm nhỏ đầu ông rồi vứt xuống sông”. Tôi không rõ là sông nào. Gia quyến Cao Bá Quát bị tru di tam tộc, trong đó có hai người con trai của ông. Sách vở và tác phẩm của ông bị đốt bỏ.

Cao Bá Quát với núi Sài Sơn - 1

"Cao Bá Quát toàn tập" - Chủ biên Mai Quốc Liên.

May mắn thay, từ thế kỷ XX đã có nhiều công trình nghiên cứu, sưu tập thơ văn Cao Bá Quát. Năm 2004, Toàn tập Cao Bá Quát được xuất bản. Với 1327 bài thơ, tuyệt đại bộ phận là chữ Hán và một số tác phẩm văn xuôi ký, truyện ngắn, tự, phú... Chừng ấy thơ thôi đã là một di sản thơ đồ sộ, nhiều tầng ý nghĩa, một thế giới tinh thần đa diện của những suy tư đau đáu về thế sự bên cạnh ngàn ngàn ý thơ tinh tế đến kỳ lạ của một nhà nho tài tử mà lắm khi cầm hoa sen Phật trên tay... Và chỉ ngần ấy thôi, chưa kể biết đâu còn sách vở chưa tìm được, người đời đã gọi ông là Thánh Quát - bậc thánh của thi ca. Tên tuổi của ông được xếp cùng với các nhà thơ lớn của dân tộc. 

Thơ Cao Bá Quát thuộc dòng thơ bác học. Trong sáu bài Luận thi - bàn về thơ thì điều thứ nhất ông đề cao là tri thức. “Bách trác thiên ma phương thị học nhất chi bán giải vị vi văn” nghĩa là phải trải qua trăm dũa nghìn mài mới gọi là sự học, chỉ hiểu biết nửa vời chưa phải là văn chương; mặc dù có người nói thơ ông còn có lúc lạm dụng điển tích nhưng phải thừa nhận kiến văn của ông vô cùng rộng rãi và sâu sắc.

Năm 1843, đời Thiệu Trị, nhận xét về văn học nôm, Cao cho rằng Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều làm thơ khuôn mẫu ngang với Đỗ Phủ. Bằng Quận Công Nguyễn Hữu Chỉnh đặt điệu cung từ rong ruổi không nhường văn học thời Hán Ngụy. Truyện Kiều là tiếng nói hiểu đời, Hoa Tiên là tiếng nói răn đời. Năm Tự Đức thứ ba, quãng 1851, khi đề tựa thơ cho Miên Thẩm, Cao Bá Quát tâm sự: Hiện nay cái học khoa cử in sâu vào người ta đến mấy trăm năm. Tiếng vang của phong nhã hầu như tắt hẳn. Thơ tuy phải có quy cách. Nhưng làm thơ gốc phải tính tình. Tô Đông Pha bàn về cách viết có nói: "Không học là hơn". Ai hiểu được ý ấy thì có thể cùng nói chuyện về việc làm thơ được. Quan niệm như thế thì làm sao lạm dụng điển tích được. Bởi vậy người ta ngạc nhiên đến nửa đầu thế kỷ XIX, các điển cố văn chương được Cao dùng với sự lịch lãm tài hoa không kém gì các bậc tiền nho... Những bức tranh thiên nhiên đất nước Việt Nam tươi đẹp cùng nhiều ẩn ức, đầy cảm khái về thế sự, về trách nhiệm của người sĩ quân tử làm nên căn cốt của thơ ông.

Kỳ lạ thay, chính ở đất phủ Quốc Oai cằn cỗi thuộc Sơn Tây, nơi ông đã treo áo từ quan: “mô phạm dăm ba thằng mặt trắng, đỉnh chung chiếc rưỡi cái lương vàng”. Lương không phải bằng vàng mà các quan nhà ta được triều đình phát lương tháng bằng thóc, thóc màu vàng, để làm một người thường lại là nơi ông dựng cờ khởi nghĩa và oanh liệt ngã xuống trước trận tiền tại nơi đó; cũng là nơi ông đã viết 5 bài thơ thất ngôn bát cú về ngọn núi thiêng của đất Sài Sơn. Ngọn núi Sài Sơn có tên nôm là núi Thầy; tên chữ là núi Phật tích; ngọn núi mà trước đó ngót 30 năm vô thường ông đã đến đây thăm, giờ trở lại theo như ông viết trong lời bạt của các bài thơ. Đó cũng là điều lý giải vì sao 5 bài thơ của một nho sĩ được đào luyện nơi “cửa khổng sân trình” lại thấm nhuần đạo Phật.

Trước đây, Cao Bá Quát đã từng viết bài thơ Chùa Bối Am về một chùa nằm ở sườn phía Tây núi Thầy trong đó đã có cái xa vợi hư không của Phật “Gặp các sư trong chùa chưa chắc đã hiểu nhau mà nói chuyện được. Hãy đợi mây trắng trở về sẽ hỏi việc cổ kim”. Núi Sài Sơn như là một biểu tượng trầm mặc của tinh thần Phật giáo ở đất Sơn Tây. Và do đó, suy tư của 5 bài thơ này không hẳn giống với những gì ông đã làm, đã cầm lấy giáo mác giương cờ khởi nghĩa Mỹ Lương. 5 bài thơ đó là Hẹn với Ngô Ngọc Giang chơi Sài Sơn và 4 bài cùng có tên: Buổi chiều đi chơi Sài Sơn, mưa tạnh lên đỉnh núi đề thơ vào vách.

Bài thơ Hẹn bạn đi thăm núi Sài Sơn vì ở đó có Thạch khả đề thi bất đãi trình, tức là đá núi có thể đề thơ. Và Đệ ư cao lĩnh thính trùng thanh - lên đến đỉnh cao thì nghe được tiếng thông reo. Bốn bài thơ tiếp theo là trực tả phong cảnh tuyệt vời của Sài Sơn từ trên cao mà vẫn không vắng được hoa sen và tiếng chuông chùa của Phật.

Bao nhiêu núi bên sông tản mát mỗi nơi một ngọn

Phong cảnh núi này nổi tiếng nhất vùng Sơn Tây

... Trận mưa nhỏ vừa qua, bến nước đầy sen đỏ thắm

Tiếng chuông vẳng bỗng ngân lên từ trên lầu dưới bóng tà dương.

Phong cảnh trầm buồn của núi thảng thốt dưới mưa trong ánh tà dương gợi cho tâm trạng có thể nói là hiền lành mang đậm chất thiền cùng với điều tâm sự chưa bao giờ thanh thản của người thi sĩ, trong đó nghe đâu những ẩn ức về thế sự được vây bọc bởi ánh thiền.

Cởi áo trầm ngâm xa xa trông ngóng

Vì mến cảnh rừng thiền nơi mọi việc đều yên tĩnh

Tinh thần thiền đã được họ Cao nhiều lần nhắc đến với không khí đầy thi vị “Túy da bất giác hoài bổ ái, độ tận đồ lê bách bát chung” - mải chơi bỗng nhớ đến chiếu cói trong bóng râm, thầy tăng ngủ hết một trăm lẻ tám tiếng chuông chùa, lại được tiếp tục khi xem vết chân Từ Đạo Hạnh, vị sư tổ đắc đạo đời Lý đã hóa thân ở núi Sài Sơn để đầu thai về cõi trần làm vua Lý Thần Tông, rồi từ đó Cao Bá Quát nghĩ về thế sự dưới sự chỉ đường của hoa sen nhà Phật.

Đời người trăm năm đã qua mấy cuộc hưng suy

Tay cầm bông hoa sen, mỉm cười, mình tự biết mình.

Cái logic ấy dẫn đến việc nghĩ đến phận mình, Cao Bá Quát cảm nhận sâu xa trước bóng chiều tà chìm dần sau núi Sài Sơn mang đi dòng nước chảy xiết của đời người dửng dưng việc thăng tiến cầu vinh chỉ mong ước làm người ẩn sĩ xa lánh cuộc đời, làm bạn với sách vở thánh hiền mà thôi.

Mặt trời lặn trần gian cũng biến đổi theo

Đang như dòng nước chảy xiết mà riêng vẫn thấy dửng dưng với chuyện     làm quan

Rấp tâm sẽ dựng căn nhà đọc sách tại núi này. 

Tưởng như đã bày tỏ hết cái tâm nguyện ấy mà dường như lại sợ chưa nói hết nỗi niềm tâm sự của mình, Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ thứ tư mô tả khi ông đứng trên núi Sài Sơn, mắt thu gọn nước non hàng muôn ngàn dặm để dưới ngòi bút kỳ tài và khoáng đạt của ông hiện ra mây khói của mười sáu ngọn núi cho giây phút ngạo nghễ cười của một nho gia mà không phải một đệ tử hiền lành của đạo Phật nữa.

Chỉ ưng huề dịch lai thiên thị

Tiếu vấn chư thiên cách kỷ trùng

Nghĩa là: cũng nên vác sáo lên chợ Trời, một địa danh có thật trên đỉnh Sài Sơn để cười hỏi các vùng trời còn mấy trùng xa nữa. Thế là lúc đầu cầm cành sen mơ ước dựng nhà đọc sách đến đây lại thấy vác sáo để cả cười trước bầu trời xa rộng, khẩu khí của một nho sĩ tài tử. Nhưng cái logic phổ quát thể hiện thế giới tinh thần và căn cốt tâm trạng của Cao Bá Quát ở 5 bài thơ về núi Sài Sơn, núi Phật tích - là tinh thần của đạo Phật. Trước tiên là bến nước đầy sen đỏ thắm sau mưa, cái bóng sen đã hiện hình nhiều lần từ lâu rồi trong thơ Cao Bá Quát, từ hồi ở Hương giang xứ Huế. “Vinh khô tứ thập dư niên sự chỉ hữu hà hoa tự cựu hồng” - Thịnh suy bốn chục năm qua, riêng sen vẫn giữ màu hoa đỏ việc đời việc phật không tách rời nhau để từ đó mà mến cảnh rừng thiền nơi cả thế gian mọi việc đều yên tĩnh đến mức an bài. Rồi theo sự chỉ dẫn của Phật pháp, Cao cầm bông sen mỉm cười mình tự biết mình dù cuộc đời trải qua trăm năm đã mấy cuộc hưng suy. Cái logic đời và Phật làm cho Cao Bá Quát tự nhận thấy mình đã mệt mỏi lắm rồi. Chỉ rắp tâm dựng lều đọc sách tại núi Sài Sơn mà cách đây gần 200 năm là miền sơn cước nghèo túng, vắng vẻ người qua lại. Tuyệt nhiên ta không thấy bất kỳ một sự chuẩn bị nào cho việc phất cờ khởi nghĩa ở chính cái nơi định một mình đọc sách ấy.

Bình sinh Cao Bá Quát thường dành nhiều tâm sự về thân phận của văn chương và kẻ sĩ, có mối liên hệ gì của văn chương với việc động binh đao này hay không?

Cao Bá Quát có sáu bài bàn về thơ từng đề cao người làm văn chương là mệnh của trời truyền cho. “Văn chương thiên hứa nhất nhân truyền” nhưng văn chương là niềm trăn trở đau đáu khôn nguôi suốt đời Cao Bá Quát. “Thời nhân ngộ hứa văn chương giá” - người đời đã lầm khi coi trọng mình vì văn chương. “Hướng tích văn chương đằng nhi hý, thế gian thùy thị chân nam tử, uổng cá bình sinh độc thi thư” - chuyện văn chương trước đây thực là trò trẻ con, trong thế gian này ai thật là bậc tài trai, mà lại phí cả một đời đọc pho sách cũ. “Văn chương tinh vệ hận” - văn chương mang mối hận của con chim tinh vệ, một điển tích của văn chương Trung Quốc, theo đó chim tinh vệ là hiện hình của con gái vua Viêm Đế (vua Thần Nông) suốt đời lấy mỏ tha những viên đá nhỏ bỏ xuống sóng nước mong lấp biển Đông Hải là nơi cô đã bỏ mình ở đó. Như thế là Cao Bá Quát đã làm đúng cái trật tự của nho gia - làm trang nam tử lập đức, lập công rồi mới đến lập ngôn. Nhưng với Cao Bá Quát đọc sách, làm việc văn chương chỉ là chuyện phí đời. Và hơn thế nữa văn chương chỉ là ôm mối hận của con người, chẳng làm nên việc gì cả, giống như con chim nhỏ lấy mỏ cắp đá lấp biển khơi.

Vậy là 5 bài thơ viết cho núi Sài Sơn mang đậm chất thiền mặc của một người muốn yên phận dựng lều đọc sách xa lánh cuộc đời chỉ là giấc mơ thôi. Ai mà nghĩ được cái người làm ra những vần thơ đó lại dựng cờ khởi nghĩa; đem thân mình vào việc binh đao? - Vì sao lại như vậy? Tôi cho rằng Cao Bá Quát là kẻ sĩ yêu đất nước mình, yêu nhân dân mình mà có lần ông đau đớn tâm sự “Từ khi mắc vào lưới đời” thì đã thấy: “Khoảng trời đất cổ kim kim cổ, mang hình hài không có có không”. Ông đã không thể làm ngơ trước tình cảnh cơ cực năm đó nạn châu chấu hoành hành, đời sống của người dân ở Sơn Tây, Mỹ Lương... vô cùng quẫn bách, triều đình chưa làm điều gì thiết thực để cứu dân. Cao Bá Quát đã gạt bỏ cái mong muốn về núi Sài Sơn đọc sách. Thực ra ông đã nung nấu điều này từ khi đứng trước sông Nhị Hà (sông Hồng) Lãng quyển đào hoa sách địa hồng - dòng nước cuốn theo đất đỏ thành làn sóng hoa đào, mà cảm khái viết nên câu:

Hạo hạo quan hà kim cổ ý

Thử thân hà sự tất thi ông

- Quan hà lồng lộng gợi nên bao ý nghĩa cổ kim

Thân này vì cớ gì lại cứ phải làm một nhà thơ!

Hơn thế nữa và không chỉ có thế, Cao Bá Quát còn theo đuổi lý tưởng xã hội tiến bộ. Có lần ông nói: “Người có phương pháp lớn hẳn có cách sắp đặt thi hành lớn”. Trong truyện Vụ án trộm trứng kể về ông tiến sĩ Phan giữ chức: Thiên sai tri hình, có người mang biếu 100 quả trứng gà, hôm sau thấy thiếu một quả chỉ còn 99 bèn tra hỏi đầy tớ đánh thật đau mà không ai nhận cả. Đánh đến lần thứ ba thì một lão bộc tự thú. Ông ta nói là đã nuốt cả vỏ trứng vì sợ bị phát hiện. Ông Phan sai viên lại viết tờ luận tội. Tờ luận tội viết rằng: áp dụng điều khoản gia tăng tội phạm vì đã là nô bộc còn ăn cắp và đầy tớ khác là thông đồng phạm pháp. Chi tiết cần được xử nặng. Tiến sỹ Phan than thở và cùng chính là tâm nguyện của họ Cao: “Tra tấn người tràn lan là quá đáng. Và thế mới biết cái hại sâu xa của lời buộc tội xảo trá”. Rồi từ từ lấy quả trứng gà từ trong tráp ra và nói: Quả trứng này chính tự tay ta lấy để thử xem sao. Ngày hôm sau Tiến sĩ Phan thưởng cho đày tớ rất hậu rồi treo ấn từ quan cáo bệnh về nhà. 

Điều đó một phần lý giải vì sao cái kết cục Cao Bá Quát đã dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình. Một người như ông, một thi sĩ như ông dù muốn lập công giúp dân nghèo đói khổ, nhưng vốn không phải xuất thân có tài thao lược cho việc binh đao; cho nên cuộc khởi nghĩa thất bại là điều khó tránh khỏi. Cái bi kịch của thời đại ông là vậy đó. Nhưng thách thức của lịch sử vẫn còn đó. Chỉ ba năm sau khi Cao Bá Quát tử trận - năm 1858 - lần này không phải là châu chấu nữa - Giặc Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta. Cái triều đình tìm cách hủy Á Nguyên của Cao và sau đó đã chém bêu đầu ông, chỉ huy trận chiến đấu chống giặc xâm lược Pháp yếu ớt và buộc phải lần lượt dâng đất nước ta cho giặc ngoại xâm như là một định mệnh đau đớn của lịch sử, mặc dù có trận kịch chiến oanh liệt ở thành Sơn Tây, cách Sài Sơn theo đường chim bay chừng hai chục dặm.

Cuộc đời của Cao Bá Quát thực sự là một trang sử uất hận của thời cuộc nhưng sự nghiệp thi thơ của ông vẫn còn đó. Các nhà Hán học nước ta đã tìm thấy và lưu giữ cho đến ngày nay bút tích của Cao Bá Quát viết các bài thơ vân du Sài Sơn như đã nói ở trên. Quả thật, đó là một lối chữ Hán tài hoa, thiên biến vạn hóa. Nó đẹp đến nỗi ông Nguyễn Tuân không kìm lòng được cái bức tranh bằng chữ ấy đã viết nên thiên truyện ngắn đầy huyền thoại: Chữ người tử tù trong tập Vang bóng một thời hồi những năm nửa đầu thế kỷ XX. Nhưng có lẽ chỉ là một phần quá bé nhỏ, chỉ là tôn vinh cái khí khái và cái tài viết chữ đẹp của họ Cao mà thôi.

Cao Bá Quát là hình mẫu đồ sộ, đầy biến cố và ngổn ngang tâm trạng của lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX - cho một thiên tiểu thuyết có tầm vóc tương xứng với con người kỳ lạ đó và nó như là một duyên nợ của văn chương từ buổi đó cho đến ngày nay.

(Tất cả các bài thơ trích dẫn trong bài này phần phiên âm chữ Hán và dịch nghĩa đều căn cứ vào “Cao Bá Quát toàn tập”)

Khuất Bình Nguyên

Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), sinh ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Sau khi đậu...

Tin liên quan

Tin mới nhất

Giá đồng tăng kỷ lục, nhu cầu của đất nước tỷ dân “tụt dốc”

Giá đồng tăng kỷ lục, nhu cầu của đất nước tỷ dân “tụt dốc”

Dù giá đồng quốc tế vừa lập mức cao kỷ lục, nhu cầu sử dụng tại Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới lại giảm sâu trong mùa sản xuất cao điểm. Ngành xây dựng trì trệ và cắt giảm chi tiêu công là những nguyên nhân chính, trong khi xuất khẩu trở thành “van xả” cho các nhà sản xuất đồng trong nước.