Góc riêng sáng tạo của nhà thơ Phan Nhật Tiến
Không chỉ là nghề nghiệp của một báo vụ viên trong thời chống Mỹ, mà còn mang phẩm tính thi sĩ, Phan Nhật Tiến – Hội viên Hội Nhà văn TP HCM, chọn góc đứng để quan sát, để có cái nhìn, đánh giá riêng về sự vật, hiện tượng, về những chuyện đời. Điều đó thể hiện khá rõ ở những bài thơ làm tựa đề cho tập thơ. Sau “Hoa ở chốt” và “Mỏm đá đợi trăng”, xuất bản năm 2023, năm 2025 ông đến với bạn đọc qua tập thơ “Góc chiều”, NXB Hội Nhà văn.
Hình ảnh nào cũng là biểu tượng. Hoa trên bờ công sự, chiến hào. Gương mặt người lính cũng là những nụ hoa, biểu tượng cho cái đẹp ngàn đời. Từ trên mỏm đá cao, đón đợi trăng lên treo trên đầu súng, cái đẹp trong lặng lẽ và cả ảo huyền. Góc chiều lại là nơi người thơ dựng cho mình một khoảng lặng trong những giờ ngày đêm giao thoa, hoàng hôn buông khẽ, với ký ức một thuở cứ theo hoài trong những vần thơ…
Nhà thơ sử dụng hình ảnh tĩnh để khéo léo phơi bày cái động, những rung cảm bâng khuâng trong tâm hồn. Biểu tượng tĩnh vật nên thơ cũng dễ làm người đọc xao lòng, đêm ôm súng nằm đợi trăng khuya, chút lưu luyến sau từng hơi gió, ngọn cỏ, bông hoa bên chiến hào hay một chiều lững thững trôi và thi nhân đang lãng đãng sông hồ.
Tập thơ “Góc chiều” của Phạm Nhật Tiến.
Ở chốt tiền tiêu, những người lính đêm ngày quần nhau với địch: "Đất đá cỏ cây tất cả đều xơ xác/ chỉ còn hoa trên gương mặt bạn tôi”.
Hoa đó đã nở nụ, đọng trong mắt người lính trẻ, ngắm trời xanh, qua thước ngắm siết cò, “xác giặc chất chồng dưới những chùm hoa”. Bom pháo cũng không thể tới được bờ hoa: “Từ bờ hoa nở thêm hoa chiến thắng/ hoa ở chốt này những đôi mắt rất trong”…
“Hò hẹn” - bài thơ thứ hai trong tập thơ “Góc chiều”, nhiều động từ và tính từ, khá độc đáo với guốc mộc khua trong lồng ngực, chiều ghen với tiếng sáo diều. Một từ khá đắt là “lúng búng” đặt trước “ngày mùa chộn rộn” đem lại nhiều lớp nghĩa khi song hành với “dùng dằng” và “bồn chồn”. Trong khung cảnh mùa màng bội thu, ngày vui chộn rộn, tác giả nhìn ra tâm trạng người trẻ buổi hẹn hò: “Lúng búng ngày mùa chộn rộn/ dùng dằng bàn tay bịn rịn/ khói lam bồn chồn chờ cơm”.
Còn với “Góc chiều”, một vùng ký ức nơi phố núi cao nguyên sống dậy. Ngày đó có mưa bụi, gió đan làn hương trôi về phía người con gái. Bối rối khiến nhà thơ “lỡ làm nghiêng góc chiều”, đến nhiều năm sau cảm xúc vẫn như những ngày đầu đã thật xa xưa:
“Bao năm rồi chưa hết bồn chồn/ buổi chiều xưa cũng mưa rắc bụi/ cũng lơi lả lời yêu gió gọi/ cũng liêu xiêu màu tím cuối đường/ làn sương tím của bao ngày xa nhớ/ bỗng ùa về vây kín góc chiều anh/ gió vẫn thổi ngược miền vô định/ lay tình xưa khiến núi tròng trành”.
Nói “núi tròng trành” song núi vẫn đứng đó tĩnh tại, chỉ lòng nhà thơ dậy sóng và bước chân đi trên phố núi như người miên du…
Rất nhiều buổi chiều sau góc chiều đó, chuyên chở nỗi buồn đi xa, mà nỗi buồn không đi, cứ ở lại bên mình, quanh quẩn. Dường như buổi chiều đánh rơi đâu đây mà mãi đi tìm, tìm hoài không thấy: “Bờ vai bữa ấy, trót rơi buổi chiều” (Hờ hững)
Buổi chiều lại đầy lên trong thơ, trong tình yêu của người lính khi trở lại giảng đường, trĩu buồn vì lỡ làng, dang dở. Đó cũng là buổi chiều đầy gió: “Mười mấy năm/ nắng còn đợi bên thềm/ anh về lại công viên/ của những ngày xa đó/ chỉ còn gió/ biết bao nhiêu là gió/ cùng nửa vòng tay/ níu vạt nắng cuối chiều (Nắng cuối chiều)
Từ những suy tư đến nát lòng, đã bật ra những câu thơ hay, triết lý sâu mà thấm: “Sẽ chẳng còn ai thương lá rụng/ cũng không ai cảm nhận cành cong/ chỉ có người trong cuộc/ mới thương lá, xót cành” (Chỉ có)
Như lẽ tự nhiên, những câu hỏi bật ra. Hỏi rằng, sợ người quên hình ảnh con cá đồng đeo kính (con cá rô đồng vào mùa lạnh giấu mình trong bùn, chỉ đưa ra cặp mắt hơi lồi, trông như đang đeo kính) lúc chân trần gieo mạ trên đồng trong gió bấc tràn trề: “Gió bấc thổi về anh đón phía sau lưng/ không lẽ em quên/ hình bóng của chính mình/ nép bên người yêu/ bơi trong sương sớm”
Hỏi người rồi tự nhủ: “Mà cũng lạ/ giữa sắt se gió bấc/ chưa đến tháng ba/ đã có sấm đầu mùa” (Không lẽ em quên)
Tiếng sấm đó cũng là điềm báo cho một tình yêu tan vỡ, cho sự lãng quên của một người. “Mà cũng lạ”, một tán thán nhẹ nhàng song lại như vết roi quất vào đau đớn… Lạ, vì không như những gì hình dung, mong ngóng, chỉ dấu từ hiện tượng thiên nhiên mới khiến thoáng giật mình… Tất cả đã đi qua, tình yêu thuở non tơ, vụng dại. Người yêu sang ngang, người ở lại biết buồn sau nửa đời xa cách đã gắng quên sau câu lục bát: “Nửa đời nay lại tìm về/ cái thời vụng dại ê chề nỗi đau/ em cài hoa trắng nghiêng đầu/ tôi ôm kỷ vật nhói sầu bao năm” (Vụng dại)
Là nhà thơ, ai chẳng có những vần thơ yêu mềm mại, pha chút u buồn thời trẻ. Phan Nhật Tiến cũng đã đi qua, xem như một phần hành trang của tâm hồn. Lớn lao, chân thành, sống với đời một cách mạnh mẽ vẫn là một Phan Nhật Tiến, chiến sĩ giải phóng quân. “Góc chiều” dành dung lượng lớn cho những vần thơ viết về những người dấn thân trong cuộc kháng chiến cứu quốc, từ biệt động nội thành đến du kích Củ Chi và người lính, người Thanh niên xung phong những năm chiến tranh biên giới Tây Nam…
Trong những tháng ngày hào hùng và gian lao đó, bao người trẻ tuổi hy sinh cả tính mạng và tuổi thanh xuân, như cô Thanh niên xung phong: “Em ra đi chưa mười chín em ơi/ thành phố gọi tên khản lòng tiếc nhớ” (Truyền lửa).
Trở lại đất thép Củ Chi, nhà thơ nhớ về đồng đội: “Nắm xương gởi lại đất lành/ một làn hương tỏa, khói thành bạn tôi”
Tình nghĩa đồng chí, đồng đội, tình cảm yêu thương của người dân nước Việt mãi ấm áp, thiêng liêng: “Giọt tình nhỏ xuống đất này/ giọt thương đọng lại cho ngày hôm nay/ hương trầm tỏa, khóe mắt cay/ trao ân nghĩa lại đất này mai sau” (Thăm lại Củ Chi)
Phan Nhật Tiến viết về thế hệ của mình mà ông gọi là thế hệ dấn thân, mang cả vết đau trong tim: “Chiến tranh đi qua/ nhiều vết sẹo đã lành/ riêng vết đau trong tim còn đọng mãi/ cả dân tộc/ đâu chỉ mình gánh chịu/ vẫn trằn trọc/ vẫn đêm đêm thổn thức/ thương bạn mình, thương thế hệ dấn thân” (Thế hệ mình)
Nhưng phải nén nỗi đau, vượt lên mà sống, với lòng khoan dung, mở ra với trang đời mới. Đời sống phải đi về phía trước, là một tất yếu. Lòng người không thể mãi chật hẹp, oán hờn: “Thôi bỏ đi em/ đừng khơi dậy nỗi đau/ mình đã trải qua/ một khoảng đời cay đắng/ trả ray rứt về miền tĩnh lặng/ để gió sớm mai dang tay đón mặt trời” (Thôi bỏ đi em)
Trở lại đời thường, ông hạnh phúc khi con ngoan, học giỏi, là sự đền bù cho những nỗ lực và yêu thương của cha mẹ. Ông nói với vợ hiền: “Đến một ngày niềm vui lớn vỡ òa/ giảng đường đón con mình vào đại học/ niềm hạnh phúc khiến em bật khóc/ gian nan lùi lại phía sau” (Đừng buồn nữa)
Thơ Phan Nhật Tiến, như những lời tự sự, nhỏ nhẹ như tính cách của ông, đem lại cho người đọc sự đồng cảm về vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu cuộc sống, hướng đến ngày mai tốt đẹp hơn. Đọc những tập thơ của ông, điều dễ nhận ra là đọng lại tình người, tình quê miền Bắc dù ông định cư ở TP Hồ Chí Minh. Miền quê đó ẩn hiện trong những câu lục bát ông làm nhuần nhuyễn, có những câu những ý tứ, thi ảnh hay và đẹp.
Đến những năm tháng này, người con gái quê ông vẫn phải bỏ xứ mà đi ắt hẳn có lý do bức bách vì gia cảnh, song vẫn nặng tình quê “giờ đây dứt áo đi xa/ hành trang gói cả quê nhà ôm theo”.
Chữ “ôm” là đời mà chính là thơ, “ôm” hay hơn “mang”, “đem”, bởi còn mang biểu tượng một vòng tay ghì siết mà phải buông ra để cất bước, song vẫn ôm gói hành trang trên những dặm dài. 4 câu thơ cuối là cảnh làng quê vào hội diễn chèo, chợt nhớ em. Nỗi nhớ bắt đầu từ cái cổng làng, cây si: “Vẳng trong gió nhịp trống chèo/ buồn rưng rưng nhuộm xóm nghèo hoen mi/ cổng làng ai dựng cây si/ em đi cái dáng dậy thì cũng đi” (Ngày em đi)
Cái cổng làng, cây si là biểu tượng quê hương, em đã ôm vào lòng đưa vào hành trang, nên “em đi, cái dáng dậy thì cũng đi” đem lại sự sững sờ cho người đọc. Cái dáng dậy thì là hiện thân cho cái đẹp người con gái, sau chữ “cũng đi” là một hơi thở buồn, một nỗi tiếc nhớ, bần thần…
Thơ của Phan Nhật Tiến viết những đề tài gần gũi, không nặng về nghiệm suy thế sự, một phần bởi ông là người lính, đi qua nhiều hy sinh gian khổ nên không đặt nặng tâm trạng cá nhân vào những vấn đề thế sự. Nhưng thơ ông không vì thế mà nhẹ nhàng khi những câu chữ được hoài thai đã “chín” từ tâm tưởng. Ông viết về đời sống, tình yêu, về sự hy sinh của những người Việt nhiều thế hệ, ông làm thơ về đại dịch COVID-19, những thiên thần áo trắng quên mình cứu người; vẫn nhói lòng trước tang thương làng Nủ sau cơn bão Yagi… Sau những câu chữ đều có khoảng lặng để người đọc cùng suy ngẫm để sẻ chia cảm xúc, những buồn vui theo không gian, thời gian, theo những tâm tư của nhà thơ… Hầu như thơ ông không nặng triết luận nhưng vẫn chuyển tải những luận lý về đời sống, công cha nghĩa mẹ, tình yêu, tình cảm gia đình, nghĩa tình chồng vợ với giọng điệu riêng, chân chất mà không thô mộc, nhỏ nhẹ mà sâu sắc…
Phan Nhật Tiến có những câu thơ thật hay và độc đáo trong tập thơ này:
“Chưa là muối mặn của nhau/ mà gừng cay đã thấm sâu giữa lòng (Nỗi nhớ)
“Anh lang thang vay hết nửa buổi chiều/ lắng tìm lại lọn gió hồ ngày ấy” (Đà Lạt chiều)
“Mai này người có lỡ làng/ là do ai đó không màng lời ru” (Đừng trách lời ru)
Chúc mừng nhà thơ Phan Nhật Tiến, lặng lẽ góc riêng sáng tạo, vẫn giữ vẻ trong sáng, tươi tắn của những bông hoa ở chốt ngày nào, nay thêm góc chiều để trải lòng với tha nhân. Qua từng trang thơ, người đọc rõ hơn về một nhà thơ – người lính của thời tuổi trẻ và nhà thơ sống trong hòa bình sau những được mất của đời người, nhìn đời bằng sự bao dung và thấu cảm…Từ “Góc chiều” mở ra không gian thơ, người thơ và người đọc đến với nhau bằng những rung động chân thành…

Câu thơ trên: "Một mình nhấp một chiều thu" trích từ bài "Lời gió" (trong tập Vùng phủ sóng, 2010), không ghi chú thời...
Bình luận