Hành trình đi tới minh triết: Đọc “Đường sáng” của Nguyễn Văn Mạnh
“Một đời người – Nếu có thể trả được món nợ danh dự bằng hành động nhỏ bé nhưng chân thành, thì dù còn bao nhiêu năm phía trước, cũng không còn gì phải day dứt nữa.” (Kết truyện)
Chữ nghĩa Đường sáng như sắp đặt nghiêm cẩn, tỉ mỉ từng thớ lớp ký ức cá nhân trong tương quan kí ức gia tộc/ dòng họ và ký ức cộng đồng. Tất cả giao thoa trọn vẹn nhịp nhàng - nâng đỡ nhau để làm hiện lên hình bóng một đời người đi qua nhiều quanh co biến cố vắt ngang từ thế kỷ XX. Đó là một hành trình tinh thần mà tiền đề là những trải nghiệm “oan khiên” cá nhân – như một phép chiếu rọi, để từ đó thấy được độ sâu của lịch sử trong sự “truân chuyên” của phận người. Nhân vật Hạnh, với tất cả sự mộc mạc và liêm chính tiết diện, hiện lên như một “người mang chứng tích”, một nhân vật mà cuộc đời anh đủ sức đại diện cho nhiều con người/ một lớp người khác trong thời đại ấy. Và chính vì vậy, Đường sáng có được phẩm chất của một tác phẩm hướng tới “minh triết”:
Tính cá thể được nâng lên thành phổ quát, trải nghiệm cá nhân trở thành hệ quy chiếu để soi ngắm diện mạo xã hội, lịch sử, và nếp nhân sinh cùng cung/ quy cách sống - sống sao cho “thấu đáo”, cho “cân nhắc” với cả những điều đúng lẫn sự sai nhầm không tránh khỏi trên đời... Để sau tất cả, cái cuối cùng còn lại là sự “chừng mực”, vừa phải trong nhân sinh quan, để hào quang chiến thắng không ánh ỏi ảo trá và lòng oán giận không đeo nặng bám sâu vào căn tính đời mình. Có như thế mới mở ra đường đời biết yêu, biết thứ tha và biết sự thật rất “nghiệt ngã”...

Tiểu thuyết "Đường sáng" của Nguyễn Văn Mạnh.
Sự kết hợp giữa ký ức, trải nghiệm và suy tưởng, giữa chi tiết cụ thể và hình tượng tượng trưng, giữa hiện thực và trữ tình (thi ca), đã làm nổi bật một cấu trúc văn học mở, nơi những vết thương được gia cố “thêu thùa” bằng lòng nhân, phẩm giá và ý thức tự trọng (trọng danh – liêm – sĩ). Ở đó, Nguyễn Văn Mạnh cũng thể hiện cách tổ chức ký ức linh hoạt: mạch hồi cố không tuân theo tuyến tính thời gian vật lý mà chủ yếu dựa trên sự trỗi dậy của ký ức và các điểm nhấn tinh thần của nhân vật. Từng chi tiết, từng biến đổi – dù nhỏ, dù tưởng chừng đời thường – đều được mô phỏng như một biểu tượng, vừa phục vụ cho dòng tự sự, vừa mời gọi người đọc tham gia suy tưởng, chiêm nghiệm về lịch sử và bản thể.
Khởi đầu bằng câu chuyện về dòng họ Nguyễn Đức, nhà văn đã lựa chọn một giọng kể khoan thai, không tô điểm nhưng cũng không giản lược. Hình ảnh cụ tổ Phúc Thanh, cụ Tiến, hiện lên trong dáng vẻ của những con người “biết sống đoan chính”, “biết dựng xây bằng đôi bàn tay”, như thể nền nếp ấy chính là dòng mạch nuôi dưỡng nhiều thế hệ. Bởi thế, khi biến cố cải cách ruộng đất xảy đến, sự nghiệt ngã của lịch sử không chỉ là cú đánh vào kinh tế mà còn là một vết cứa vào danh dự – điều mà người xưa thường coi là di sản cuối cùng của một đời người.
Nguyễn Văn Mạnh giữ cho mình một độ lùi cần thiết: Anh không lên án, không trách cứ; anh chỉ nhẹ nhàng trần thuật, và chính sự bình thản đó làm bật lên cái phi lý của thời cuộc. Câu chuyện ông Tiền bị quy thành “địa chủ cường hào” rồi sau lại được sửa thành “địa chủ kháng chiến” không nhằm tố trần, mà như một minh họa cho sự chòng chành của giá trị trong cơn xoay vần thời cuộc. Và rồi, từ chính những đảo trộn đó, câu hỏi muôn thuở của nhân sinh lại trở về: khi tiếng nói của thân mệnh bị thiên mệnh viết thay, thì phẩm giá còn có thể dựa vào đâu?
Tác phẩm mở ra lắng sâu khi bước vào tuổi thơ của Hạnh. Những trò chơi đồng quê – đánh khăng, thả diều, chọi cỏ gà – vốn là ký ức đẹp của bao thế hệ, trong văn bản này lại như một thứ ánh sáng thiện lành để đối trọng với thương tích tinh thần mà một đứa trẻ phải chịu đựng, lúc cơn bão thời nghiệt ngã thổi qua “tổ ấm”.
Buổi “ôn nghèo kể khổ” trở thành một vết cắt mạnh trong tâm khảm của Hạnh, khi người cha bị gọi tên và hạ nhục trước lớp học. Điều đáng nói là: Nguyễn Văn Mạnh không để cho đau đớn ấy biến thành một bóng tối phản kháng; anh để nó lắng dần thành một thứ trầm tích, giúp hình thành ở Hạnh một ý thức tự trọng và tinh thần vươn lên – nhưng đủ để người đọc cảm nhận được dưới chiều sâu nội tâm mang còn đó những uất ức khó tả. Và với dân tộc, vẫn còn đó những “bi cảm văn hóa” còn vằn viện trong tâm thức thế hệ. Đây chính là điểm khiến Đường sáng vượt lên trên lối viết hồi ký thông thường: nó không chỉ kể lại đời sống, mà mở ra cấu trúc tâm lý của nhân vật như một quá trình tự kiến tạo bản thể.
Cái chết của ông Tiền – không kèn trống, không phô trương – là đoạn văn mà người viết dường như đã tiết độ tối đa. Không những thế, sự lạnh lẽo của mùa đông và tĩnh lặng của đám tang nghèo có thể được xem như một “ngôn ngữ” khác của văn bản – ngôn ngữ của, không là “im lặng» mà là sự “câm lặng”: Từ đây, Hạnh bước vào đời bằng tâm thế của một người đã nếm trải nỗi mất mát lớn nhất: cái mất của điểm tựa. Nhưng trong cảm quan nghệ thuật của Nguyễn Văn Mạnh, tang tóc không bao giờ được trình bày như một kết thúc; nó luôn là cửa ngõ mở sang một giai đoạn mới của sự trưởng thành: Vừa tự hôn rửa vết thương vừa ôm mang lịch sử/ sự thật với tâm thế của sự độ tha – cho tất cả: Mình và người… Và vì thế, nhân vật bước đi với nhiều nỗ lực hơn, nhiều kiên trì hơn, và cũng nhiều lặng lẽ hơn.
Chiến tranh – khi đi vào Đường sáng – không mang dáng vẻ của đao lửa xung trận hay những bài ca bi tráng. Nó hiện lên qua những ca trực trong rừng, những lần đối diện với cái chết như điều tất yếu. Nguyễn Văn Mạnh không cố gắng lấy chiến công để tạc tượng người lính; anh chỉ muốn lưu giữ trạng thái tinh thần của họ: vừa mong manh vừa cứng rắn, vừa xốc liệt vừa sợ hãi. Ở đây, chiến tranh trở thành nơi thử thách đạo đức cá nhân – nơi mỗi con người phải quyết định xem mình sẽ đứng về phía nào của lẽ phải. Chính điều này khiến tác phẩm có gần gũi với dòng văn phản tư chiến tranh sau 1975: nhìn người lính trước hết như một con người.
Sang đến phần Hạnh theo nghề báo rồi nghiệp văn, văn bản mở rộng thêm chiều suy tư. Thật hiếm khi trong văn học Việt Nam đương đại, chân dung “trí thức đạo đức” được khắc họa khá rõ vậy. Hạnh chân thật đến mức dễ gặp rắc rối; liêm chính đến mức dễ bị hiểu lầm. Nhưng, như cách tác giả gợi mở, chính sự kiên trì bảo vệ sự thật ấy đã làm nên “đường sáng” của nhân vật. Điều đáng nói là nhận thức về công lý trong tác phẩm không cứng nhắc, không giáo điều; nó được đặt trong quan hệ “uyển chuyển” giữa lương tri, đời sống và tính người. Đây là một trong những điểm khiến lối viết của Nguyễn Văn Mạnh luôn chú mục đến cái “mềm” của đạo đức, thứ nằm giữa pháp lý và lòng người.

Nhà văn Nguyễn Văn Mạnh.
Phần cuối của tiểu thuyết, khi Hạnh trở lại với văn hóa – văn học – nghệ thuật, mang giọng điệu tĩnh khiết hẳn ra. Ở đó, “viết” không còn là hành động nghề nghiệp, mà là cách để nhân vật mở lối đối thoại với chính mình. Những trải nghiệm riêng tư được nâng lên thành kinh nghiệm tinh thần; những thương tổn được biến thành khả năng thấu hiểu tận cùng. Có lẽ, đó cũng chính là thông điệp ngầm của tác phẩm: nghệ thuật giúp con người tìm lại sự hài hòa đã mất, và qua đó, tìm lại yếu nghĩa của đời người.
Không những thế, ở đây tư tưởng thẩm mỹ được nẩy bật: Nơi mảnh đất/ miền chữ trở là nơi duy nhất trên trái đất này, con người được đối xử “bình đẳng” - kẻ yếu được bênh vực, sự thật được phơi bày và những đau khổ thương tâm được chăm rửa cho liền lành. Sự lựa chọn của Hạnh, trở thành Nhà văn như cách anh, sau khi đã vượt sóng gió trùng khơi và sang được bờ bên kia, đoái trông lại thương tâm mà nguyện mượn con thuyền chữ nghĩa - mục đích bút mực để chở những đời người đi về mối đạo cho cùng.
Cấu trúc vặn xoáy hình ốc của Đường sáng – mỗi biến cố đều quay trở lại dọi mình vào phẩm giá – tạo cho tác phẩm một nhịp điệu hướng nội đặc biệt. Nó không cần cảnh trí lớn lao, không cần những cao trào kịch tính; nó nuôi dưỡng sức nặng bằng sự đôn hậu, như nhiên. Đó là vẻ đẹp của một thứ văn xuôi không đặt mục tiêu chinh phục, mà hướng tới gợi mở; không nhằm áp đặt tư tưởng, mà để người đọc tự thấy mình trong câu chuyện và tự nghiền ngẫm nhân sử - tự “mở mang”…
Tác phẩm mở ra một hành trình nhận thức về con người từ quá khứ - nhân sinh thời nào cũng vậy, với nhiều bi kịch, với nỗi thống ngự đầy đau khổ nhưng luôn cần/ được/ bị đối mặt với sự chất vấn của lương tri, phẩm giá và lòng tự trọng như một thách thức để mà thấy được, sau tất cả là ánh sáng của sự khoan hồng – không ngoài khoan hồng với bản thể. Những trải nghiệm, thương tổn và thử thách mà Hạnh phải đối mặt không chỉ làm hiện lên thân phận lòng riêng mà còn mời gọi người đọc suy ngẫm về đạo đức, công lý và trách nhiệm trong đời sống. Suy ngẫm về nó cũng chính là một quá trình nhận thức dẫn về lối sáng - những đoạn khúc thực tiễn trên hành trình lối sáng đó luôn có mặt/ “đồng lõa” của khó khăn, mất mát và bất trắc, cũng như nghịch thường… Thiện – ác “đồng hiện”…
Sau tất cả, Đường sáng đã đưa dẫn độc giả đảo xới, lật trở miền tinh thần – kí ức, cảm xúc nơi mình để rồi luôn đòi hỏi được nhận thức/ nhận thức lại cho mở ra những tầng nghĩa mới mẻ và sâu sắc - để tái tạo: Nặng lượng, trí tuệ và cảm hiểu với cả những gì thuộc về quá khứ mà đã thành bài học “châu báu” cho hiện tại. Một lần nữa, trải nghiệm tác phẩm giúp người đọc không chỉ tiếp nhận câu chuyện mà còn đồng hành trên con đường tự hiểu, tự trọng và tự do tinh thần, nhận ra rằng ánh sáng của minh triết luôn hiện hữu trong từng khoảnh khắc đời sống nếu biết lắng nghe, suy ngẫm và không được ‘chểnh mảng” về sợi dây ý niệm phẩm giá…

Nhà thơ Lê Cảnh Nhạc sinh ngày 15/8/1957, quê Vũ Quang, Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Đại học tại Liên xô (cũ); Tiến sĩ Giáo...
Bình luận