Không chỉ là chuyện đời một thầy giáo

Đọc “Mạ tui” – Tưởng nhớ một người thầy - một nhà văn… không nổi tiếng…

Nhiều người đến dự buổi giới thiệu tự truyện Mạ Tui (tự truyện của Nguyễn Viết An Hòa, NXB Thuận Hóa, 2018) do Tạp chí Sông Hương và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán phối hợp tổ chức không biết Nguyễn Viết An Hòa là ai, nhưng khi Ban Tổ chức cho hay đó là bút danh trên Facebook (Facebook) của thầy giáo Nguyễn Viết Kế, thì đều vui vẻ thốt lên: “À…”

Vậy nên theo  quan niệm thông thường, Nguyễn Viết An Hòa là người không/chưa nổi tiếng. Hơn chục năm trước, trong một cuốn sách đã in, tôi nêu vấn đề “Tự truyện không chỉ dành cho người nổi tiếng”. Nguyễn Viết An Hòa thì có khác một chút. Anh thuộc lớp sinh viên trưởng thành từ năm 1975, là bạn với nhà văn nổi tiếng Trần Thùy Mai và trong cuộc đời anh có chi tiết mà rất nhiều nhân vật nổi tiếng không có được: Anh từng được Bầu Đức (“sếp” Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai) thu xếp một chuyến bay do anh hùng không quân Nguyễn Thành Trung cầm lái đưa anh trở lại Huế!…

Nguyễn Viết An Hòa không được phong danh hiệu gì trong ngành giáo dục, cũng không là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam hay hội viện Hội Văn nghệ tỉnh. Ở Huế vẫn có một “lớp người” đặc biệt như thế; ví như thầy Phạm Kiêm Âu, không hề có “danh hiệu” gì, nhưng nhiều nhà văn, tiến sĩ kính phục xem thầy là nhà giáo mẫu mực hiếm có…; hay như nhà thơ Trần Vàng Sao, dịch giả Bửu Ý… không phải là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nhưng được rất nhiều nhà-văn-có-thẻ thuộc loại “lão thành” kính trọng. Đời vui và phong phú thế đó!

Không chỉ là chuyện đời một thầy giáo - 1

Tự truyện "Mạ Tui" của Nguyễn Viết An Hòa.

***

Xin trở lại với trường hợp Nguyễn Viết An Hòa. Trong giáo giới và nhiều thế hệ học sinh, sinh viên - ít ra là ở Huế - Nguyễn Viết Kế là một tên tuổi được kính nể. Từ năm 1974, anh đã là Chủ tịch Ban Đại diện sinh viên Đại học Sư phạm Huế và 35 năm (1977-2012) anh là người thầy dạy văn được hàng chục ngàn học sinh trung học yêu mến, ngưỡng mộ - từ Pleiku, Tây Nguyên xa ngái đến các Trường Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ (Huế)… Hơn thế, thầy Kế là người có lắm… “tài”, hăng hái hoạt động đoàn thể, biểu diễn văn nghệ, nên có nhiều “fan”, đến mức học trò ở Tây Nguyên làm đám cưới, cũng mời bằng được thầy Kế vào “dẫn chương trình”. Trong tự truyện, bên cạnh những “tổng kết” với rất nhiều thành tích về giáo dục, thầy đã dẫn chương trình trên 300 đám cưới!

Nhưng trong làng văn, Nguyễn Viết An Hòa thuộc hàng… “cây bút mới”, tuy anh đã xuất bản một số sách như Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn (sưu tầm - biên soạn, NXB Đà Nẵng, 1994), Hướng dẫn sinh hoạt ngoài giờ (NXB Thanh niên, 2001), Luyện thi Tú tài Văn (viết chung, NXB Thuận Hóa, 1996), Nhịp chày thác nước (Thơ in chung, Sở VHTT Gia Lai Kontum, 1980). Với một cuộc đời phong phú như thế, nên tự truyện tuy mang tên Mạ tui, nhưng ôm chứa rất nhiều số phận, nhiều điều gợi chúng ta suy ngẫm về thế sự, về đạo làm người… 

Hiện đại chuyên chở “cổ tích”

Có lẽ cũng nên nói đôi điều về “xuất xứ” tác phẩm. Thiên hạ làm văn từ đăng trên Facebook không hiếm, nhưng tác phẩm văn học đầu tay của thầy giáo Nguyễn Viết An Hòa trước ngưỡng cửa “thất tuần” xuất hiện gần như 100% nhờ có Facebook vẫn đáng gọi là độc đáo. Khi biết người mẹ sống thọ hơn một thế kỷ đang ở bên cửa tử, tác giả đã miệt mài qua 700 đêm, viết nên 100 số Mạ tui đưa lên Facebook và đúng vào lễ Vu Lan báo hiếu PL 2562 - 2018, đồng thời là Lễ Tiểu tường (1 năm mạ đi xa), cuốn sách Mạ tui được giới thiệu trân trọng với đông đảo độc giả ở Huế. Nhà văn Trần Thùy Mai - người cùng trưởng thành từ “lò” Đại học Sư phạm Huế trước 1975 như Nguyễn Viết An Hòa - trong lời Tựa cho tác phẩm đã viết: “Tự truyện “Mạ tui” này là một lăng mộ tinh thần vô giá mà Nguyễn Viết An Hòa dâng cho mẹ. Ít người con nào làm được như anh…”.

Ở một khía cạnh khác, qua trường hợp Mạ tui, chúng ta có cách nhìn đúng đắn hơn về Facebook nói riêng và “mạng xã hội” nói chung. Đã từng có không ít chỉ trích Facebook và mạng xã hội hay tung tin thất thiệt, nhảm nhí, gây “nhiễu” dư luận… nhưng với một tác phẩm văn chương như Mạ tui, công nghệ hiện đại đã “chuyên chở” ngon lành những câu chuyện “cổ tích”, ít ra đã truyền đến hàng ngàn độc giả khắp mọi miền những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ bị tàn phá bởi lối sống đua chen chạy theo hưởng thụ vật chất. Với Mạ tui, chúng ta hiểu ra, Facebook cũng như “mạng xã hội” và công nghiệp hiện đại không có “lỗi” gì. Vấn đề là con người sử dụng chúng phải có bản lĩnh, có cốt cách văn hoá…

Không chỉ là chuyện đời một thầy giáo - 2

Tác giả Nguyễn Viết An Hòa và tác phẩm "Mạ tôi".

Một con người bình thường vẫn chứa đựng một phần lịch sử

Sau khi đọc các hồi ký và tự truyện của Phan Thị Thu Quỳ (Áo tím đồi sim), Bảo Cường (Sau một cuộc đời), Trương Thị Thu Cúc (Những người muôn năm cũ), Song Cầm (Cánh chim trong bão tố), tôi đã nêu vấn đề “Tự truyện không chỉ dành cho người nổi tiếng”. Với Mạ tui, một lần nữa, điều này được khẳng định. Tuy vậy, trong cuộc tọa đàm "Hồi ký - chuyện đời, chuyện người và trào lưu xã hội" do Sống - thương hiệu sách tác giả Việt của Alpha Books tổ chức hồi tháng 6 năm 2018 tại Hà Nội mà sau đó nhiều báo chí đưa tin, xem ra các diễn giả và dư luận chỉ chú ý đến tự truyện của người nổi tiếng, những người làm nghệ thuật trong showbiz... có nhiều độc giả nhưng cũng từng bị chỉ trích về tính chân thật và nhất là các tình tiết xúc phạm đến những người xung quanh. Những điều đó cũng như những cuộc tình “tay ba”, “tay tư” gây scandal là có thật, chủ yếu diễn ra trong giới nghệ sĩ, diễn viên; tự truyện của họ chủ yếu đáp ứng sở thích những kẻ tò mò hậu trường các “ngôi sao”, chứ không hẳn có giá trị về văn chương, càng không nêu được các vấn đề xã hội, lịch sử của đất nước. 

Gần đây, chính một số hồi ký, tự truyện của những người chưa nổi tiếng, không thuộc giới showbiz lại đạt được những giá trị đó, tiêu biểu như Lính bay của Phạm Phú Thái (viết về các chiến sĩ không quân) và Chuyện lính Tây Nam của Trung Sĩ… Tôi không có ý so sánh Mạ tui với 2 tác phẩm vừa dẫn, nhưng có thể gọi đây là “dòng” tự truyện viết từ lớp người “cơ sở”, nền tảng của xã hội (thời M. Gorki thì gọi là “Dưới đáy”) - những trang sách không nhiều “mầu mỡ” như của giới showbiz, cũng thiếu tầm “vĩ mô”, nhưng đầy ắp chi tiết chân thật của cuộc sống, của lịch sử. 

Người mẹ trong Mạ tui là một con người bình thường - rất bình thường, chỉ có “chức vụ” duy nhất là mẹ của 9 đứa con, suốt năm tháng chạy chợ “đầu tắt mặt tối, đòn gánh đè vai… bàn tay chai sạn, bàn chân nứt nẻ vì nắng mưa gió chướng”; vậy mà qua cuộc đời bà và những người con - kể cả mấy người “con-dâu-hụt” - cũng đều là người bình thường, chúng ta như được gặp lại, được sống lại những năm tháng đầy biến động của dân tộc. Nói cách khác, những con người bình thường trong Mạ tui vẫn chứa đựng một phần lịch sử.

Nhiều năm qua, do dân tộc ta liên tục phải trải qua chiến tranh tàn khốc nên nói đến “lịch sử”, hầu như ai cũng nghĩ là phải có cảnh bom rơi đạn nổ. có các sự kiện đấu tranh bên thắng bên thua; trong Mạ tui cũng có những điều đó (xin trình bày phần sau), nhưng “lịch sử” còn là việc gìn giữ nguồn cội, truyền thống văn hoá một vùng đất, nền nếp gia phong…

Trong cuộc đấu tranh hai phe dai dẳng, người mẹ trong Mạ tui tưởng như ở ngoài dòng chảy lịch sử hào hùng và bi tráng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ - ngoại trừ một lần vào dịp Tết Mậu Thân 1968, bà phải ôm con đi sơ tán kèm với nắm rơm ủ ấm cho mấy mẹ con. Vậy nên “công lao” lớn nhất của bà trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc vừa qua là nuôi dưỡng, giáo dục đàn con, xây dựng một gia đình “ngũ đại đồng đường” theo khuôn phép của một “tín đồ Phật giáo thuần thành; từ nhỏ Mạ đã theo bà ngoại đi chùa làng An Hòa tụng kinh niệm Phật… Đã thọ “thập thiện giới ăn chay một tháng mười ngày…”; nhờ đó, bà đã đưa gia đình vượt qua bao sóng gió, cùng tiến bước với xã hội cho đến ngày hôm nay. Đây là một sự nghiệp không thể xem thường, thậm chí là quan trọng, khi chúng ta nhận ra vấn đề giáo dục trong gia đình ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc xây dựng một xã hội tốt đẹp, khi không ít người “bất ngờ” thấy ra nhiều khía cạnh “tích cực” trong đời sống xã hội ở Lào và Miến Điện - hai nước xem đạo Phật như là “quốc giáo”... 

Đọc mấy trang hồi ức của Nguyễn Viết Huy - cháu nội đích tôn của bà - viết ở phần cuối cuốn sách, nhắc lại những bài học về sự tiết kiệm, về sự nhường nhịn mà bà răn dạy con cháu hàng ngày, chúng ta càng thấy giá trị “công lao” của người mẹ bình thường ở làng An Hòa phía Bắc thành Huế vừa ra đi ở tuổi 104… xuân! 

Bàn cờ chính trị, tôn giáo, tình yêu & số phận con người

Tự truyện của Nguyễn Viết An Hòa dành khá nhiều trang viết về những cuộc tình dang dở của mình khiến Mạ tui thêm sức cuốn hút bạn đọc. Nhà văn Trần Thùy Mai, trong lời Tựa có nhận xét: “Thật là “trong cái rủi có cái may”, sự lận đận tình duyên của anh, làm cho mẹ anh âu lo thấp thỏm suốt chục năm trời, nay lại trở thành kho vốn liếng để anh xây dựng nên hàng trăm trang viết hấp dẫn…”.

Điều tôi quan tâm hơn là các chuyện tình trắc trở của anh không phải để “câu khách”, càng không phải kiểu tình yêu chụp giật hay buông thả, chạy theo danh lợi của không ít người trong showbiz từng bị dư luận chỉ trích; tình yêu ngang trái của Nguyễn Viết An Hòa không thiếu vẻ đẹp mà chính tác giả gọi là “Mối tình thơ” và “Chuyện tình xuân”, nhưng rồi bất thành vì sự trớ trêu của số phận. Đó là một cách nói ngắn gọn thôi, còn những chuyện tình tan vỡ của Nguyễn Viết An Hòa không chỉ khiến người trong cuộc và bà mẹ già của anh buồn đau mà còn gợi chúng ta nghĩ đến bao điều về thân phận con người trước những đổi thay trên bàn cờ chính trị, về sự ràng buộc tình yêu đôi lứa vì tín ngưỡng tôn giáo…

Đã có nhiều tác phẩm viết về sự cô đơn của con người trước những va đập của lịch sử; với các trường hợp của Nguyễn Viết An Hòa, chúng ta xót xa vì cảm thấy các “guồng máy” hầu như không chút bận tâm trước sự tổn thương, đổ vỡ của mỗi số phận; và trong hoàn cảnh đó, con người tỏ ra thật là yếu ớt. Các học trò yêu đã trách thầy Kế yếu đuối và chính tác giả cũng tự nhận mình không đủ mạnh mẽ để vượt qua trở lực. Nhưng có ai đó đã nói rằng vẻ đẹp thường yếu ớt (như một bông hoa hồng, một tiếng đàn thánh thót trong đêm…) rất dễ bị “tổn thương”; mà con người là một vẻ đẹp - tác phẩm kỳ diệu của tạo hóa - con người đang sống như trong mơ với mối tình đẹp, càng dễ bị xiêu đổ. Giá như mọi người hiểu điều đó và biết quan tâm, biết gượng nhẹ khi buộc phải đụng chạm đến mỗi số phận con người.

Trên thế gian, không ít người chỉ một lần thất tình đã tìm đến cái chết, Nguyễn Viết An Hòa thì “quá tam ba bận” phải “giương cờ trắng” trong cuộc tìm con dâu cho mẹ. Lần đầu, với một nữ sinh Đồng Khánh, vào lúc “giao thời” của lịch sử Việt Nam: Năm 1974, chàng vay tiền mẹ nàng để tổ chức Đêm Sư phạm hàng năm vào dịp Tết, dự tính khi nhận học bổng sinh viên sẽ trả. Nhưng ai ngờ, sau 26/3/1975, “Huế giải phóng và… học bổng sinh viên cũng được “giải phóng” luôn!”, Ban Đại diện thì chỉ mình chàng ở lại Huế “chịu trận”. Thế là mạ phải “bán gần hết tra lúa được chừng gần một cây vàng” cho con trả nợ. “Làm cái Ban đại diện chi cho khổ cả nhà rứa con ơi!... Trời ơi là trời, trời không có mắt!”.

Quả là chỉ có kêu… Trời, chứ biết hỏi ai? Biết trách ai bây chừ!

Lần thứ hai, với người đẹp làng Ngọc Anh (Phú Vang) mặc cho chàng “xách ba lô cơm đùm gạo bới… đi nhận nhiệm sở ở vùng đất bazan có cúc quỳ vàng”. Mối tình nồng thắm bất chấp khoảng cách không gian và không “môn đăng hộ đối” - nàng là Tôn nữ (dòng dõi Tôn Thất), đặc biệt hơn nữa là thân phụ nàng đang phải “cải tạo” ở Bình Điền. Vậy mà đôi bên đã vượt qua bao nghi ngại, cho làm lễ ăn hỏi, nhưng sự đời, ai học hết chữ “ngờ”! Đúng lúc chàng và nàng tiính ngày làm lễ cưới thì tin như “sét đánh ngang tai”: Chính quyền “quyết định trưng thu ngôi nhà, vườn tược 2000 mét vuông, chỉ để lại căn bếp và 100 mét vuông cho gia đình, mẹ em đã ngất xỉu…”. Thế là tan nát một mối tình đẹp vì “với ba em, tui là “cán bộ Đoàn, người của cách mạng”, đáng căm ghét... Ta đành phụ nhau em ơi!...” 

Cũng chỉ có kêu… Trời, chứ biết hỏi ai để phân giải được sự đúng - sai? Biết trách ai đã làm cho đôi trẻ khóc hết nước mắt vì biệt ly bây chừ! 

Nguyễn Viết An Hòa hiểu nghĩa vụ người con trai độc nhất của mẹ, thấy mình có lỗi để mẹ già mãi mong chờ cô dâu hiền, nên dù đang đau đớn vì chia tay nàng Tôn Nữ làng Ngọc Anh đến mức mang bệnh dạ dày, chàng lại “dấn thân” vào cuộc tình lần thứ ba với cô y tá chăm sóc chàng tại bệnh viện. Cũng nhờ đám học trò xứ sở hoa cúc vàng vun vô và nàng lại là người Huế lên xây dựng Tây Nguyên như chàng. Lo cho con đau ốm và chắc cũng nóng lòng muốn biết mặt con dâu tương lai, người mẹ già cùng bà chị của Nguyễn Viết An Hòa không quản đường xa còn đầy trắc trở hồi đó, bới đùm quà bánh lên Gia Lai. Bà chưa kịp mừng thấy cô y tá đẹp người tốt nết thì đã hoảng hồn khi biết cô theo đạo Thiên Chúa và đã ăn “bánh Thánh”. “…Răng mi lại để cho hắn ăn? Ăn thứ nớ vô là như ăn bùa mê thuốc lú mi nạ…” Trong suy nghĩ rất đơn giản mà nghiệt ngã của Mạ tui, không thể có chuyện kết hôn với người ngoại đạo. Bởi vì Mạ sợ lấy vợ, lấy chồng như thế là bỏ đạo luôn. Mà bỏ đạo tức là bỏ thờ cúng, bỏ hương khói ông bà tổ tiên. Bất hiếu!”. Thế là chuyện tình đẹp với Thánh nữ miền cao nguyên tan vỡ ngay sau “Đêm Thánh vô cùng” mùa Giáng sinh năm đó!...

Lại chỉ còn biết kêu… Trời, chứ biết hỏi ai, rằng Đạo nào cũng dạy con người điều thiện mà sao nỡ chia lìa đôi lứa đang yêu? Và biết trách ai bây chừ!

Nguyễn Viết An Hòa còn “trắng tay” trong cuộc tình lần thứ 4 với nàng “Radio” xinh đẹp, ngâm thơ hay trên Đài Phát thanh Gia Lai. Mà đâu chỉ Nguyễn Viết An Hòa, trong Mạ tui còn có một số nhân vật chịu đựng mất mát, bất hạnh vì thời cuộc đảo lộn khiến người đọc không khỏi xót xa. Như người chị của tác giả, “mồng 4 Tết Mậu Thân 1968, chồng chị là lính “Xây dựng nông thôn” chế độ miền Nam về nghỉ Tết, sau đó thì đi tải thương cho bộ đội…” rồi mất tích; chị mòn mỏi chờ đợi suốt gần 50 năm, ở vậy nuôi hai cháu khôn lớn và chăm sóc mẹ già… Cặp đôi “thầy trò lớp Toán” cũng có cuộc tình thật đẹp trên đất cao nguyên, nhưng rồi thầy theo gia đình vượt biên, trò mỏi mắt chờ đợi mãi, thi đại học thì không đậu vì lý lịch (!), rồi cũng phải “chọn lấy một trong những người đàn ông theo mình bấy lâu làm chồng dù nàng không yêu. Trái tim nàng rớm máu…”. Gần 40 năm sau, họ tình cờ “gặp lại nhau trong một quán cà phê nổi tiếng giữa phố núi mù sương… trong tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh “Còn chút gì để nhớ, để quên”…”.

Nhưng thôi, chỉ 3 cuộc Nguyễn Viết An Hòa “lỡ đò” cũng đủ để chúng ta phải suy ngẫm về những bất trắc và sự “vô thường” trên đường đời không phải lúc nào cũng êm đẹp. Một tác phẩm đầu tay, đặt được vấn đề như Mạ tui khiến người đọc phải 3 lần “chỉ còn biết kêu… Trời”, là một thành công không nhỏ của Nguyễn Viết An Hòa.

***

Còn có thể nêu ra một số điều đáng chú ý trong Mạ tui, như cách sử dụng tiếng địa phương khá “đậm đặc”, nhưng không làm độc giả khó hiểu mà lại tạo được “không khí” Huế rõ nét; về kết cấu truyện, Trần Thùy Mai khen tác giả “sáng tạo khi thỉnh thoảng lại cắt lớp thời gian, kéo người đọc về thời hiện tại”, nhưng thực ra, đây là thủ pháp nhiều cây bút đã thực hiện rất giỏi; còn cách “xen kẽ” chuyện “xưa - nay” của Nguyễn Viết An Hòa có chỗ chưa… khéo, hơi “xôi - đỗ”, mặc dù trong các “lát cắt” đan xen có những “màn” thú vị như cuộc gặp thầy trò Có thể nào quên tại Pleiku sau gần 30 năm xa cách, với chuyến bay trở lại Huế có thể là “độc nhất vô nhị” bằng chuyên cơ H.344 của người học sinh cũ đã thành nhân vật nổi tiếng Bầu Đức (“sếp” Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai) do anh hùng không quân Nguyễn Thành Trung cầm lái!…

Cuộc đời vốn bất toàn, sao có thể đòi hỏi sự toàn bích của một tác phẩm đầu tay, lại sinh thành từ những trang Facebook, nhất là khi tác giả phải chạy đua với thời gian để có sách kịp ra vào ngày giỗ đầu của mẹ - mùa Vu Lan báo hiếu. Được biết thành công của Nguyễn Viết An Hòa đã đưa Mạ tui vượt không - thời gian, đến với nhiều độc giả ở xa Huế và tác giả đã phải “nối bản”.

***

Tôi đã viết những dòng trên từ mấy năm trước. Được biết, sau Mạ tui, Nguyễn Viết An Hòa đã viết được nhiều chương cuốn sách tiếp nối, với nhân vật chính là người vợ yêu quý đã trải qua những năm tháng cực nhọc của đời mình. Có dịp gặp nhau, tôi lại hỏi: “Viết đến mô rồi? Nhiều người đang chờ đợi đó!”. Anh chỉ cười, nói rất nhẹ: “Khi mô xong, sẽ in đem tặng anh…”. Nay thì anh đã đi xa, vì bệnh “K” mà cả ngành y hiện đại đều bất lực. Không biết liệu có ai giúp anh hoàn chỉnh và công bố bản thảo này không? Ở Nhaa Trang, đã có cô giáo Đàm Thị Ngọc Lý, sau khi người chồng là nhà văn - thầy Hồ Dạ Thảo qua đời, đã viết tiếp và công bố tiểu thuyết Còn đó tình yêu (NXB Dân trí & Sbooks – 2021) được nhiều người tìm đọc…

Nguyễn Khắc Phê

Tin liên quan

Tin mới nhất

Lê Thanh Tú - Cô bé mẫu nhí tài năng và ước mơ trở thành một người dẫn chương trình chuyên nghiệp

Lê Thanh Tú - Cô bé mẫu nhí tài năng và ước mơ trở thành một người dẫn chương trình chuyên nghiệp

Lê Thanh Tú, sinh ngày 28 tháng 12 năm 2018, là một cô bé vô cùng dễ thương với gương mặt xinh xắn như búp bê và đôi mắt to tròn, sáng ngời thông minh. Cô bé hiện đang học lớp 1A7 tại Trường Tiểu học Văn Khê, Thanh Tú không chỉ có thành tích tốt trong học tập mà còn hăng hái tham gia nhiều hoạt động.

Tổ chức triển lãm tranh cổ động tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam

Tổ chức triển lãm tranh cổ động tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành Quyết định giao Cục Văn hoá cơ sở chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức triển lãm tranh cổ động tấm lớn kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024).