Trần Anh Thơ: 35 năm hành trình văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục
Buổi đầu tôi vinh hạnh được gặp ông từ quãng năm 1973 khi ông đang là giảng viên Tiếng Anh tại Đại học Sư phạm Hà Nội, được mời đến dạy môn ngoại ngữ tại lớp đại học báo chí ở Báo Nhân Dân, mà tôi là đang là biên tập viên trẻ tại đây, đồng thời là sinh viên của lớp này. Tôi bước sang tuổi hai mươi bảy, thầy hơn tôi 8 tuổi. Chẳng mấy chốc thầy - trò thân nhau. Càng về sau càng thân hơn, gắn bó như anh em, luôn luôn liên hệ, cùng trải qua mọi vui buồn chẵn tròn năm mươi năm đằng đẵng nghĩa tình. Tôi học được rất nhiều ở ông, một bậc trên hiểu sâu rộng về đời sống, lịch lãm, tài hoa, giàu kiến thức, giỏi kỹ năng về chuyên môn.
Quyển Tuyển tập nghiên cứu và khảo luận “35 năm hành trình văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục” (Nxb Thanh niên, 2023) của tác giả Trần Anh Thơ hôm nay đến với độc giả đã từng được hai anh em - thầy trò bàn bạc với nhau từ trước. Tác giả tính gọn chẵn 35 năm, thật ra ông đã có nhiều sách, bài báo in từ trên bốn mươi năm trước. Tuyển tập chọn in những bài giảng, bài báo, khi tác giả đang là Phó chủ nhiệm khoa Ngôn ngữ Anh Đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội (HUBT: Hanoi University of Business and Technology). Sách khổ 16 x 24 cm, 430 trang, gồm 3 phần: Văn hóa (12 đơn vị bài), Ngôn ngữ (13 đơn vị bài), Giáo dục (28 đơn vị bài).
Tuyển tập nghiên cứu và khảo luận “35 năm hành trình văn hóa, ngôn ngữ, giáo dục”.
Nhà giáo Trần Anh Thơ tâm sự: “Về văn hóa, cuốn sách muốn góp phần trực tiếp tạo nên bản sắc của cá nhân trên nền tảng bản sắc của dân tộc là yêu nước, yêu hòa bình và phụng sự lẽ phải. Về ngôn ngữ, cuốn sách nêu lên việc học ngoại ngữ như tiếng Anh là nhằm tiến tới xây dựng một nền học vấn Anh văn ở Việt Nam, mà trên hết là để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt với kho từ vựng phong phú và những hình thức diễn đạt uyển chuyển, đáp ứng nhu cầu giao tiếp xã hội thông qua các ngôn bản và văn bản nguồn. Về giáo dục, cuốn sách ngầm định rằng đã đến lúc nền giáo dục Việt Nam cần phải mang tính quốc tế và thực tế, như coi trọng hệ thống giá trị đạo đức, ứng xử, giao tiếp; như hướng tới sự công bằng, phát huy khả năng sáng tạo và cải tiến; coi trọng tự do, lấy tự do làm nền tảng để phát triển”.
1- Văn hóa – Xã hội Việt Nam, những giá trị Việt
Thấu hiểu sâu sắc ý nghĩa soi đường của văn hóa, tác giả đã đặt vấn đề này lên đầu sách. Đây là một tập hợp bài giảng tại học đường HUBT. Những trang biên soạn với nhan đề chung: “Việt Nam văn hóa - một góc nhìn - trao đổi với sinh viên khởi nghiệp HUBT” cùng nhan đề phụ: “Tìm hiểu Tonkin - Bắc Kỳ - Bắc Bộ - Miền Bắc. Quê hương bản quán, phong tục tập quán của chúng ta”. Đó là một tập hợp bài có 5 phần. Tiếp đó là ba bài khác dưới nhan đề phụ: “Tìm hiểu Đàng Trong - Nam Hà vùng lãnh thổ Đại Việt do Chúa Nguyễn kiểm soát. Quyết tâm xây dựng một thế lực độc lập đối đầu với thế lực của vua Lê - Chúa Trịnh đến tháng 12 - 1774”.
Tác giả tiếp cận văn hóa – xã hội Việt Nam từ góc nhìn du lịch và kiến văn, đồng thời với góc nhìn Lịch sử - Địa văn hóa, đời sống thường ngày, phong tục ăn ở… Một trăm năm mươi trang sách có được do tham khảo, biên soạn, đúc kết từ nhiều nguồn tài liệu về lịch sử, văn hóa, chính trị, kinh tế, địa lý, thuộc không gian và thời gian được xác định, đã giúp sinh viên khởi nghiệp trau dồi, kiến thức mọi mặt, bồi dưỡng lòng yêu Tổ quốc, ý thức tự hào dân tộc. Tác giả khiêm nhu tâm sự rằng, “đây là những lời nói cho nhau nghe, kể cho nhau hiểu, nhỏ to làng trên xóm dưới Xứ Bắc Kỳ quê ta”.
Những trang viết không chỉ cần cho riêng giới trẻ mà còn có ích cho đông đảo bạn học. Người đọc có thể hiểu rằng đây là văn bản tóm tắt từ hàng chục hàng nghìn trang sách, mà tác giả đã tâm đắc, nghiền ngẫm.
2 -Văn hóa giao thoa ngôn ngữ Đông - Tây, nhìn từ Việt ngữ
Là nhà giáo dạy tiếng Anh đại học, với hơn mười đầu sách về Học và Luyện các kỹ năng ngôn ngữ Anh, nhiều năm qua Trần Anh Thơ đã nghiên cứu văn hóa Anh - Mỹ trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn liên văn hóa – ngôn ngữ - giáo dục Đông - Tây. Ông gây nên sự chú ý nhiều nhất của sinh viên, đồng nghiệp và bạn đọc rộng rãi bởi ý kiến riêng trong các bài báo, tiểu luận nêu sau đây: 1- Không nên để việc dạy học ngoại ngữ chao đảo trước thời cuộc. Tiếng Anh là cần thiết nhưng không phải là ngoại ngữ độc tôn; 2 - Học, dạy ngoại ngữ và văn chương; 3 - Hướng tới một đội ngũ dịch văn học; 4 - Thành ngữ, tục ngữ Anh, những điều lý thú và công việc chuyển ngữ.
Trước tình trạng “đua nhau” học tiếng Anh mà sao nhãng một số ngôn ngữ quan trọng khác, ông nhấn mạnh: “Đã đến lúc cần định hướng lại mục đích dạy và học ngoại ngữ của một quốc gia có tính chiến lược (...) chứ không đơn thuần chỉ là cho một thời cuộc”. Và khẳng định: “Để trở thành những tác giả đầy uy tín trong sự nghiệp viết sách, làm sách cho những thế hệ làm công tác ngoại ngữ ở thế kỷ XXI thì sự uyên bác vững chắc và bách khoa của người viết và người dạy hay là người viết thứ hai (dịch giả) là yêu cầu số một” (tr181).
Hướng người dạy và người học san sẻ sang tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn, ông nhận định: “Xét qua lịch sử Việt ngữ, chúng ta nhận thấy ngôn ngữ Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa chói lọi nhất trên toàn cầu, đó là nền văn hóa cổ xưa của Trung Quốc và nền văn hóa cận đại của nước Pháp. Hai nền văn hóa này không những đã làm cho tiếng Việt thêm giàu, thêm mạnh, mà còn thâu thái được tất cả các tinh hoa của hai nguồn tư tưởng Âu - Á, kim - cổ” (tr 231). Đó là suy nghĩ chân thành, sâu sắc, sáng suốt, nhạy cảm thời sự của một người thầy đã trải nghiệm một hành trình văn hóa – ngôn ngữ - giáo dục thật dài.
3- Giá trị cốt lõi giáo dục trong và ngoài HUBT
Có điều kiện đến Hoa Kỳ nhiều lần, lần nào cũng ở lại lâu và tiếp cận các trường đại học danh giá, nhà giáo Trần Anh Thơ đã học hỏi được nhiều, để rồi khi trở lại quê hương Việt Nam, ông đã truyền đạt kinh nghiệm quý báu, ứng dụng vào việc giảng dạy tại trường mình. Khi đến thăm Đại học Berkeley BUC (1876) và Đại học Stanford hay Đô thị đại học xanh, ông tự hỏi: “Phải chăng đã từ lâu nền giáo dục bậc cao Hoa Kỳ đã thổi cái hồn của triết lý Nho giáo - Tư tưởng đức trị của Khổng Tử và tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử - để đạt tới tầm cao giáo dục hiện đại thế giới cùng với phép thử mầu nhiệm về cung bậc trí tuệ IQ - chỉ số thông minh và EQ - chỉ số xúc cảm, để đi đến một quyết định cuối cùng cho việc lựa chọn những hiền tài nguyên khí quốc gia.”
Rồi ông tự trả lời một cách rắn rỏi: “Nếu như nền giáo dục ấy không vì quyền thụ hưởng của con người có giá trị đích thực chất lượng cuộc sống, thì sau một đêm nếu phố Wall New York, cựa mình, nền tài chính chứng khoán thế giới sẽ rung chuyển, tác động cả một chuỗi, và thế giới lại rơi vào khủng hoảng tài chính và tiền tệ”. Mùa hè năm 2017, ông dự cuộc Hội thảo về tính nhân văn học tại Đại học Stamford, California. Hội thảo bàn về các vấn đề: 1- Cá nhân - khả năng học tập và phát triển; 2- Phẩm hạnh và sự tôn trọng những đức tính cá nhân; 3- Tiềm năng cá nhân và việc khởi động tính sáng tạo của chủ thể; 4 - Hạnh phúc của cá nhân và hoạt động của chủ thể trong khung tiêu chuẩn; 5 - Quyền được bảo đảm nhân phẩm tự do của mỗi cá nhân. Khi về nước, ông viết bài Nhân văn học đường, sự khởi đầu cho những ước mơ.
Mỗi lần, ra nước ngoài, nhà giáo Trần Anh Thơ lại có thêm những suy nghĩ mới áp dụng vào nền giáo dục nước nhà và góp phần cùng đồng nghiệp xây dựng định hướng HUBT qua các cuộc trao đổi để nhuần thấm về hệ giá trị văn hóa nền và giá trị xã hội HUBT. Ông nêu ra mẫu số chung cho sự tiếp biến văn hóa học đường, đó là nhân văn, hòa hiếu, trung thực, thân thiện và ở mỗi giai tầng lại có những chuẩn mực riêng về giá trị văn hóa cốt lõi. Cụ thể là tại HUBT, thì sau giá trị cốt lõi chung thể hiện ở 12 chữ vàng: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Tình thương - Trách nhiệm - Văn minh, thì sinh viên là lý tưởng ý chí, chủ động tích cực; giáo viên là lòng yêu nghề, yêu con người, trách nhiệm, nâng cao năng lực.
Trong tiểu luận Cố vấn học tập – người tiếp lửa cho học trò, tác giả bày tỏ: “Gần sáu mươi năm qua, tôi không dành cho mình một vị trí quyền lực nào trong lòng học trò, ngoài cách hành xử rất nhân văn và rất đặc biệt, đậm lòng yêu thương, bởi cho rằng học trò là “cá thể đặc biệt”. Đó là tính chân, thiện và mỹ. Theo tôi, người thầy cần: 1 - Tìm hiểu sự hiểu biết ở con người của học sinh; 2 - Phát hiện những giá trị cốt lõi “Tôi là ai?” của học sinh để tư vấn; 3 - Hiểu tính cách, tư tưởng, suy nghĩ, cảm xúc, thái độ, nỗi niềm của học sinh; 4 - Khích lệ những mặt tích cực (hiểu biết, giao tiếp, năng lực, kỹ năng…) của học sinh.
Nhiều người đến Hoa Kỳ nhưng ít người để tâm đến mối liên hệ hữu cơ giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Trong tiểu luận Triết lý của một nền giáo dục, nhà giáo Trần Anh Thơ bàn đến “Xúc cảm về sự giao thoa triết lý giáo dục Đông - Tây”. Ông đã nhiều lần nhắc đến tư tưởng Khổng Tử ở mặt tích cực, tiến bộ của Người xưa. Khi bàn đến Sức lan tỏa của Nho học lấy đạo đức làm giá trị trung tâm (tr.289), tác giả đã có ý kiến rất xác đáng: “Về đặc trưng cơ bản của tư tưởng Khổng Tử mà nói đích xác thì có thể xem nó là một học vấn của cuộc sống. Nó không chú ý truy cứu một hệ thống và quy mô lý luận, mà cố gắng dừng chân ở đạo lý làm người, với tác dụng chỉ dẫn cuộc sống cho mọi người làm theo. Điều ấy đã được thể hiện ở mấy mặt sau đây trong nền giáo dục phổ thông ở Hoa Kỳ: 1 - Lý tưởng nhân văn sinh sôi mà hài hòa; 2 - Lý tưởng nhân cách của người có học vấn; 3 - Quy phạm hành vi nhân nghĩa 4 - Phương thức vận hành chính trị của chủ nghĩa đức trị. 5 - Tinh thần thực tiễn” (tr.289).
4- Học từ gia đình, học ra xã hội. Vừa là thầy, vừa là trò
Nhiều nhà giáo suốt đời dạy cũng là suốt đời học. Trần Anh Thơ là một trường hợp tiêu biểu. Những trang viết về gia đình, bản thân từ vị trí là người học hỏi, tác giả tạo niềm xúc động hòa cảm sâu xa đối với người đọc. Mẹ ông – bà Nguyễn Thị Liên, nữ công gia chánh tròn trặn, thông minh, kiên nghị đã ảnh hưởng sâu sắc đến con cái. Ông kể: “Ngày bé, mẹ tôi bắt tôi làm việc nhà. Mẹ bảo Bé không vin, cả gãy cành. Tôi học quét nhà, rửa bát, đi chợ, ẵm em, học thưa, học gửi (...) Đó là kỹ năng sống, rất tự nhiên và đầy thuyết phục từ chuyện dạy học làm người của mẹ” (...) Tình mẹ thật bao la, chở che trong giông bão, mưa màn. Tôi thụ hưởng đạo làm người từ những việc làm đó để lớn lên biết làm người đúng nghĩa. Trong tôi, không câu ca dao nào bằng lời mẹ ru, không lời trích dẫn nào bằng tình mẹ ấm êm, ấp ủ, dưỡng dục đến khi trở thành một giáo viên, một phiên dịch viên cho lãnh đạo cấp cao trong và ngoài nước” (…)
Lớn hơn đến tuổi mười, mười một, tôi giúp cha chuyển truyền đơn cho cán bộ Việt Minh nằm vùng trong thành phố; đưa hàng binh “lính dõng” về làng quê để bơi qua sông ra vùng tự do. Đó là bài học vượt qua hiểm nguy. Cha dạy lòng can đảm. Mẹ thổi hồn tự tin. Kỹ năng sống và kỹ năng giao tiếp hình thành từ buổi sơ kỳ đó. Tôi lớn lên cùng với những điều hay, lẽ phải, lời hay ý đẹp từ giao tiếp xã hội, từ quan hệ cộng đồng, từ làng quê lên vùng cao, từ đồng bằng ra biển cả, từ bán báo, đan mây tre, từ gặt lúa giúp dân, từ “ba cùng” với dân những ngày ở quân ngũ”. Vậy là, bài học từ Mẹ đã giáo dưỡng con trai Trần Anh Thơ thấu hiểu một giáo lý, đó là tu tâm, dưỡng trí, hành đạo và đời cho thế thái, nhân tình an hòa.
Ông cũng được học nhiều từ người cha – Anh vệ quốc quân và ông cai Cần - người trông coi các khách sạn, hoạt động cách mạng từ bí mật đến công khai. Cha ông từng nuôi cán bộ nằm vùng, giải cứu nhiều cán bộ Việt Minh bị giặc săn lùng, ông bao bọc cán bộ nằm hầm ngay trong nhà mình. Ông được sở Du lịch Hải Phòng bình bầu nhiều năm là chiến sĩ thi đua cấp thành phố rồi cấp quốc gia. Sau năm 1975, ông được phong tặng Huân chương chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất. Ông được nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và thư của Chủ tịch nước mừng đắc thọ tuổi tròn trăm, khì ông còn minh mẫn. Ông mất khi đã ngoài trăm tuổi, quê hương như còn vang vọng mãi mãi lời điếu trong lòng dân: “Thành ủy Hải Phòng vô cùng đau buồn, thương tiếc vĩnh biệt đồng chí Trần Văn Cần, đảng viên cộng sản mẫu mực, kiên định”.
Kết thúc hồi ký “Cha và những câu chuyện chưa kể”, nhà giáo Trần Anh Thơ nói đến “Những giá trị cốt lõi”: “Những lúc cha con đàm đạo, cha thường nói: Người có chí ở sự học. Nếu cái chí mà kiên dũng thì cái khí chất không biến hóa đi được. Thấy tôi chưa tỏ, ông tiếp: Muốn biến hóa được cái khí chất thì trước hết phải có chí và có biến hóa được cái khí chất đi, thì cái tâm của mình mới thanh thư và mới hiểu được cái đạo huyền ảo của thánh hiền. Chỉ bằng ấy lẽ mà tôi tri nhận được cái giá trị sống cốt lõi – gia phong mà cha tôi đã dày công vun đắp…” Những trang hồi ký về cha và mẹ đã tôn vinh giá trị văn hóa gia đình - đơn vị tổ ấm cơ sở nhỏ nhất của xã hội.
Nhớ lại những năm tháng cuộc sống đang đầy đủ, bình yên bỗng nhiên thời thế đổi thay khiến gia đình bị oan sai, mới chớm tuổi hai mươi ông phải ra bến phà Đen, Vĩnh Tuy, Hà Nội (gần trụ sở HUBT hiện nay) làm việc kéo than, đập nứa, đan phên để có tiền học hết tú tài (lớp 12), còn cha thì lầm lũi chịu đựng, mẹ và hai em gái tuổi 14,15 phải đi gánh đất, bán rau kiếm ăn qua ngày… Rồi sau đó trời hửng nắng, ông vào bộ đội hải quân, viết báo Hải Quân và Quân đội nhân dân. Đó là cả một quá trình để một nhà giáo tương lai học được rất nhiều ở trường đời trước khi vào trường chính quy.
Khi còn là học trò và cả khi đã là nhà giáo – nhà giáo xuất sắc, Trần Anh Thơ được thụ giáo và chịu ơn nhiều bậc thầy lớn. Trong sách này, ông nói về GS Trần Phương và GS Đặng Chấn Liêu với một thái độ, tình cảm rất ngưỡng mộ, trân quý.
Về giáo sư Hiệu trưởng HUBT, nhà giáo Trần Anh Thơ bày tỏ lòng tri ân: “GS Trần Phương là một chính nhân trí tuệ minh mẫn, học thức cao, ưa học hỏi, trọng học thức, lễ nghĩa, mến đạo đức, lấy nhân nghĩa, lễ, trí, tín làm 5 đạo thường cho sự hài hòa (…) Có thể tóm tắt triết lý giáo dục của GS là luôn luôn điều chỉnh chính sách giáo dục theo những giá trị bền vững. Ông đã nỗ lực đem lại cho ngôi trường phi lợi nhuận một hình mẫu nhà trường mới, tinh gọn hơn, hiện đại hơn, hiệu quả hơn, đầy các ý tưởng và chính sách thích hợp cho thời đại mới. Đặt quyền lợi của người học lên trên, tập trung xây dựng tương lai”.
Về GS Đặng Chấn Liêu, “người sáng lập nền học vấn ngôn ngữ - văn hóa - văn minh Anh - Mỹ ở Miền Bắc một thời”, nhà giáo Trần Anh Thơ cho biết: “Chúng tôi được sự dìu dắt của ông, một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn, một lòng vị tha và bao dung lớn. Tiếc rằng thầy mất sớm khi chưa đến tuổi sáu mươi, không kịp nhìn thấy sự phát triển, trưởng thành của ngành Ngôn ngữ học và văn hóa Anh - Mỹ ở Việt Nam”.
Nếu cần nói thêm, thì thầy Trần Anh Thơ còn là môn sinh trung tín của Khổng học. Có thể thấy ở ông một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn hóa thấm đẫm tinh hoa đạo học phương Đông.
Tác giả Trần Anh Thơ
Lời kết
Rời khỏi tác phẩm, người đọc ngẫm nghĩ nhìn lại tổng thể hẳn sẽ nhận ra một chân dung nhiều dáng vẻ của chính tác giả - một nhà giáo có hạng bậc chuyên về Anh ngữ và văn hóa Anh - Mỹ, có nhiều đóng góp cho ngành giáo dục và xã hội, giàu sức sáng tạo trong nghề nghiệp. Văn của ông hàm chứa một phức hợp loại hình, thể loại: nghị luận, tiểu luận khoa học, biên soạn, hồi ký, bút ký báo chí, giáo trình đại học... Tác giả đọc nhiều, học hỏi nhiều, luôn luôn nâng cao hiểu biết về học vấn và đời sống thực tại. Ông lại yêu thích văn chương, thơ ca, có tố chất nghệ sĩ, bởi thế văn vừa chặt chẽ, khúc chiết, lại vừa tinh tế, bay bổng, dạt dào xúc cảm. Có đến hơn trăm câu danh ngôn Đông - Tây, cùng ca dao, thành ngữ, tục ngữ, lời nói dân gian Việt Nam trên khắp các trang sách, được tác giả dẫn ra rất khớp với từng văn cảnh.
Thí dụ, ngoài những lời của Khổng Tử và các danh ngôn phương Tây, còn có nhiều lời nói dân gian Việt Nam, như:” Ăn xổi ở thì”, “ Cơm sung cháo dền “, “Đồng tiền liền khúc ruột”,” Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã tường”, "Chết trong hơn sống đục”,"Đói cho sạch rách cho thơm”, "Gió heo may chuồn chuồn bay thì bão”, "Mèo khen mèo dài đuôi”, "Đứng núi này trông núi nọ”, “Nằm trong chăn mới biết chăn có rận”, "Gieo gió gặt bão”, “Ăn chắc mặc bền”, “Gió chiều nào che chiều ấy”, "Tre già là bà gỗ lim", "Khéo vá vai, tài vá nách”, "Một điều nhịn, chín điều lành”, “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, "Thuận bè thuận bạn tát cạn biển Đông", “Áo năng may năng mới, người năng nói năng thương” v.v.
Hồn cốt dân tộc Việt Nam như thấm đậm ngọt ngào, thoảng thơm trong lành trong tâm hồn ông qua những lời dẫn. Ông đi hết biển lại về quê hương. Rồi nữa, tác giả có một tiểu luận bàn về Thành ngữ, tục ngữ tiếng Anh- Những điều lý thú và công việc chuyển ngữ của chúng ta”, trong đó tất nhiên có nhiều câu dân gian Việt Nam tương ứng làm cho vườn hoa văn hoá, văn chương Việt Nam thêm bông thêm trái tưới mát tâm hồn người đọc , gia tăng cảm xúc khi tiếp cận các trang viết của ông.
Thoát ra khỏi chuyên môn hẹp là dạy ngoại ngữ, rồi đến nghiên cứu - khảo luận, văn hoá, ngôn ngữ, giáo dục, ông giúp người đọc chỉ thấy như tác giả trò chuyện thân thiện với mình. Những ưu điểm nói trên đã cuốn hút người đọc mọi lứa tuổi trong và ngoài sinh viên, tránh được lối dạy giảng quen mòn.
Ba mươi lăm năm… một quãng đời tươi sáng tu tâm dưỡng trí, học hỏi say mê, lao động không mệt mỏi, nhà giáo Trần Anh Thơ đã truyền cảm hứng sôi nổi đến người đọc mọi lứa tuổi, các thế hệ ngay từ khi các bài viết trong sách này lần lượt in trên báo chí trong nhiều năm, bắt rễ từ những bài báo viết từ những tháng năm ở Ban Tuyên huấn Cục Hải quân - Quân đội Nhân dân Việt Nam, báo Quân đội Nhân dân, tạp chí Văn nghệ Quân đội (1958-1961), tiếp đó là tuần báo Nhân dân Chủ nhật , nhật báo Nhân dân, tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, tuần báo Văn Nghệ , tạp chí Nghiên cứu Khoa học và Bản Tin Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội (HUBT).
Quyển sách 35 năm Hành trình Văn hoá - Ngôn ngữ - Giáo dục của tác giả Trần Anh Thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hoá là tác phẩm rất đúng với câu nói dân gian Việt Nam: “Tình trong một khắc, nghĩa đời trăm năm”.

Lời mở Những năm gần đây, hoạt động văn hóa - giáo dục của nước ta nói chung và chất lượng sách giáo khoa (SGK) nói...
Bình luận