Trở lại Hói Nồi – Tập truyện ký đằm sâu tình yêu và niềm tự hào về truyền thống văn hóa lịch sử quê hương
“Trở Lại Hói Nồi” là tập truyện ký xuất bản gần đây nhất của Hồ Ngọc Quang. Một tuyển tập văn chương thể hiện sâu sắc nhất sự gắn bó máu thịt với quê hương của tác giả. Một sự gắn bó đi cùng với hạnh phúc mà không phải nhà văn nào cũng có được.
Hồ Ngọc Quang là một trong số ít những cây viết của xứ Nghệ sớm đạt giải cao trong các cuộc thi văn chương của Nghệ An và các cuộc thi quốc gia khi còn đang trẻ tuổi. Năm 1984, anh có bút ký “Nỗi đau chưa dứt” được Báo Nghệ Tĩnh trao giải nhất cho cuộc thi viết bằng thể ký năm đó của báo. Năm 2000, Hồ Ngọc Quang nhận được giải Vàng của cuộc thi kịch bản sân khấu toàn quốc cho tác phẩm “Vết thương xưa”. Năm 2010, anh nhận giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn của Hội Liên hiệp VHNT Nghệ An cho truyện ngắn “Gặp lại bí thư”… Với những giải thưởng của chặng đường đầu khởi nghiệp văn chương, Hồ Ngọc Quang là người sớm thành công ở thể loại truyện ký.
Trong chặng đường sáng tác từ năm 1982 đến nay, Hồ Ngọc Quang đã cho ra mắt bạn đọc 3 tập sách khá dày dặn: “Ông Bụt đất nung” (NXB Nghệ An năm 2003), “Ma xó” (Truyện ngắn, NXB Nghệ An năm 2019), “Trở lại Hói Nồi” (tập truyện ký, NXB Nghệ An năm 2020). Với những nỗ lực không mệt mỏi và những thành công anh đã gặt hái được trong gần 40 năm, đến năm 2020, Hồ Ngọc Quang đã được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
“Trở lại Hói Nồi” dày trên 300 trang sách. Gồm 15 truyện ký và ghi chép. Phần lớn các truyện ký trong “Trở lại Hói Nồi” đều là những tác phẩm tái hiện thành công cuộc sống sôi động đầy dấu ấn về truyền thống văn hóa, lịch sử trong thời kỳ đất nước cũng như huyện Quỳnh Lưu và làng Quỳnh Đôi quê hương yêu dấu của anh bước vào công cuộc đổi mới.
Bìa sách "Trở lại Hói Nồi"
Hiện thực mà ngòi bút của anh hướng tới phản ánh là những giá trị về truyền thống văn hóa lịch sử, về chân dung của một số chính khách có ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế xã hội của huyện từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến nay; về các mối quan hệ tình cảm tốt đẹp của chính tác giả với quê hương, đồng nghiệp và bạn bè, về những tấm gương sáng trong lao động sản xuất để xây dựng quê hương Quỳnh Lưu giàu đẹp.
Đọc “Trở lại Hói Nồi” điều đầu tiên người đọc cảm nhận được là lòng yêu quê hương tha thiết và niềm tự hào của nhà văn về những giá trị truyền thống văn hóa lịch sử có một không hai của quê hương mình. Ghi chép “Làng tôi, làng Quỳnh” và truyện ký “Trở lại Hói Nồi” là hai tác phẩm có sự trào dâng mãnh liệt của mạch cảm xúc đó. Trong bút ký “Làng tôi làng Quỳnh”, bằng dẫn liệu của quá khứ về văn hóa, lịch sử và nét đẹp về những giá trị đạo đức hiện thời mà người dân Quỳnh Đôi quê hương đã vun đắp và xây dựng được.
Làng Quỳnh là nơi in đậm dấu ấn tuổi thơ của nhà văn, ở đó nhà văn đã từng cùng bạn bè trang lứa sống suốt tuổi thơ. Nhà văn đặt tên cho những dòng ký ức đó trong “Làng tôi, làng Quỳnh” với tên một tiêu mục để gọi quãng đời đó là cánh diều tuổi thơ: “Hình ảnh những thằng con trai chín, mười tuổi chân đất, đầu trần, mặc quần cộc đánh “vuốt tai” chạy đuổi khắp xó xỉnh trong làng, hò hét đến khản cổ, nói không ra tiếng với những trò đánh khăng, đánh đáo có từ xa xưa đã gắn liền với tuổi thơ thần tiên của tôi và theo tôi đến hết cuộc đời” (Trang 7). Theo hướng đó để giúp bạn đọc định hình được một cách sâu sắc các giá trị văn hóa, lịch sử và đạo đức của làng Quỳnh.
Trong “Làng tôi, làng Quỳnh”, nhà văn đã định danh các giá trị của làng Quỳnh Đôi bằng nhưng tiêu mục rất khái quát và cô đọng. Các tiêu mục đó giống như sự định danh các mảng nội dung trong những tiểu thuyết có chương hồi. Nhà văn lần lượt gọi làng Quỳnh của mình là Làng của trầm tích văn hóa: “Điều gì ở làng Quỳnh đã thu hút con em hướng về và nơi lưu giữ hồn quê? Phải chăng là nét kiến trúc, hình thể làng Quỳnh cũng như của các nhà dân rất độc đáo, mang tính chất của một làng cổ Việt Nam và cách đối nhân xử thế của người trong làng nghĩa tình trọn vẹn” (Trang 9). “Trong chiến tranh làng Quỳnh không có một quả bom nào trúng vào khu dân cư. Đúng ra cũng có một quả rơi trúng vào một gia đình, nhưng bom không nổ”. Làng Quỳnh là ngôi làng Cổ kính hiện đại. Cổ kính từ từng khu chợ: “Và thật lạ lùng khi hàng hóa tràn ngập vào tận các quán xá trong ngõ ngách, người làng Quỳnh vẫn giữ thú vui đi chợ Nồi mua sắm. Chợ Nồi có từ mấy trăm năm năm nay”. Làng của khoa bảng:“Làng Quỳnh xưa, Quỳnh Đôi trong Hoan Diễn là đất quan lại, thượng thư, thị lang, tổng đốc triều vua nào cũng nhiều nhưng làng xưa nay đều trọng kiến thúc “Trọng học hơn trọng quan”. Từ xa xưa cách đây ba trăm năm, năm 1638 làng Quỳnh đã lập hương ước của làng, nhằm san định lễ nghi quy chế, đạo lý, cách ứng xử với người trên kẻ dưới, với xóm làng, với người hàng xứ. Làng của những ông đồ Nghệ: “Thầy đồ Nghệ làng Quỳnh đi đâu cũng gặp”. Làng của những tấm lòng hiếu nghĩa:“Năm 1528, ông Hồ Nhân Hy, đỗ Giám sinh đã về quê dựng Nhà thánh, dựng chùa Quỳnh Thiện, đổi tên trang Thổ Đôi làng Quỳnh thành làng Quỳnh Đôi. Thượng thư Bộ lễ Hồ Sỹ Dương đã cung tiến cho làng 24 mẫu ruộng làm binh điền và 40 mẫu ruộng tốt khác làm học điền...”. Làng Quỳnh của Hồ Ngọc Quang còn là làng của nghĩa tình mang đậm triết lý người Việt Nam: Thương người như thể thương thân: “Nạn đói năm 1945 làng Quỳnh vượt qua được” nhờ sự chia sẻ đùm bọc lẫn nhau.
Với những nét nổi trội như trên của làng Quỳnh, nhà văn Hồ Ngọc Quang đã không ngần ngại khi cho rằng làng Quỳnh, nơi chôn rau cắt rốn của ông là một địa chỉ văn hóa: Chưa đầy 10km2 mà đã có 10 di tích lịch sử cấp quốc gia đã được xếp hạng. Mới đây, Sở Du lịch Nghệ An đã đưa làng Quỳnh vào điểm đến của một tour du lịch nội địa, với những điểm tham quan: Các di tích lịch sử văn hóa tâm linh, những xưởng sản xuất hương trầm gia truyền nổi tiếng hàng trăm nay, thưởng thức ẩm thực dân dã nổi tiếng “Bún, giá, cá, ruốc”... và sâu hơn, cao hơn nữa làng Quỳnh với trầm tích văn hóa khoa bảng, với hội thề của lòng thương người dài mấy trăm năm không nơi nào có được”.
Tình yêu quê hương và tự hào về quê hương không chỉ được thể hiện trong “Làng tôi, làng Quỳnh” mà còn được dâng trào trong truyện ký “Trở lại Hối Nồi” một truyện ký anh viết về chính cái hiện thực mà mình đang được sống với làng Quỳnh. Hồ Ngọc Quang đã chọn tên của truyện ký này để đặt tên chung cho cả tập truyện ký gồm 15 tác phẩm.
Điều dễ nhận thấy đầu tiên khi đọc riêng truyện ký này, người đọc sẽ có chung nhận định: “Trở lại Hói Nồi” là một tuyện ký thành công cả về mặt xây dựng cốt truyện, cả về bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật, cả việc tạo sự bất ngờ cho người đọc về kết thúc câu chuyện. “Trở lại Hói Nồi” còn thấm đẫm tình yêu quê hương xứ sở của tác giả. Đây là một truyện ký khá hấp dẫn đầy xót chua nhưng cũng ngập tràn hạnh phúc, đã thực sự có sức cuốn hút mê hoặc tới người đọc.
“Trở lại Hói Nồi” cũng như “Làng tôi, làng Quỳnh” đều có những trang viết xúc động về thời niên thiếu của tác giả. Nhưng “Trở lại Hói Nồi” chỉ tập trung nói về câu chuyện riêng của Hồ Ngọc Quang và một người bạn cùng trang lứa trong làng có tên Văn.
Tuổi thơ trong “Trở lại Hói Nồi” không còn là những cánh diều tuổi thơ như trong Làng tôi, làng Quỳnh như trước đây mà vất vả cực nhọc vô cùng. Nhà văn trong Trở lại Hói Nồi thời đó là một cậu bé nhà quê vừa đi học vừa cùng bạn đi chăn vịt để kiếm sống và kiếm tiền trang trải việc học hành, nơi mà nhà văn và một người bạn đã từng: “Dịp nghỉ hè tôi đi chăn vịt với bạn cả tuần mới về nhà... Đó là hình ảnh của Văn và tôi của hơn 40 năm trước, khi tôi đang học cấp 3 trường huyện, nó đã gắn liền tuổi thơ tôi với Hói Nồi. Hói Nồi hoang dã, thơ mộng, bí ẩn và hấp dẫn, gắn kết lạ lùng giữa tôi và thằng bạn nối khó cùng xóm - thằng Văn”. Thương bạn, muốn bạn khi trưởng thành sẽ có một tương lai tốt đẹp, ngay tại Hói Nồi, Hồ Ngọc Quang với cách nhìn đời thời đó đã có lần chân tình khuyên bạn thoát ly làng đi làm một việc gì đó rồi có vốn để học thêm lên chẳng hạn. “...Văn ngồi yên không nói gì, cũng chẳng tỏ ra tán thành hay phản đối nữa. Nó có vẻ bồn chồn như đang ấp ủ một ước mơ gì đó to tát lắm, dữ dội lắm”... “Không biết có phải Văn nghe lời tôi hay không mà cuối năm đó nó xung phong đi bộ đội, mặc dù còn thiếu một tuổi. Tôi nhận được lá thư đầu tiên nó gửi, biết nó nhập vào đoàn quân tình nguyện sang Campuchia chiến đấu”... Sau này tình cờ trong một chuyến tham quan Đà Lạt, đoàn do Hồ Ngọc Quang làm trưởng đoàn lại ở đúng khách sạn có tên “Hói Quê”, khách sạn vào loại sang 3 sao, có đặc sản gợi nhớ quê hương. Khách sạn đó lại chính là khách sạn của Văn.
Nhà văn Hồ Ngọc Quang
Trong cuộc gặp đặc biệt này, Văn cho Quang biết: Sau khi kết thúc chiến tranh Văn đi Đức làm quản lý lao động, gom góp được ít vốn về Đà Lạt định cư, lấy vợ gốc Hà Tĩnh. Vợ học xong Đại học Sư phạm không đi dạy mà ở nhà phục vụ chồng con. Vợ chồng có 3 cháu. Văn vừa là chủ khách sạn “Hói Quê” và là chủ cơ động của các cơ sở kinh doanh khác. Lần gặp này, cả 2 người đều mừng vui và toại nguyện bởi cả hai người bạn nối khố nghèo khổ ngày xưa ở Hói Nồi nay đều đã làm ăn phát đạt. Và sau đó họ đã “Tâm sự cho nhau nghe đủ thứ chuyện trên trời dưới đất nhưng cuối cùng vẫn về chuyện những con người của làng Quỳnh và chuyện làm ăn của làng”.
Câu chuyện của hai người bạn Hói Nồi thời điểm trước đó ở Đà Lạt đang ở cao trào của sự thỏa mãn thì đùng một cái thời gian sau khi Văn về quê thăm lại Hói Nồi gặp Quang thì câu chuyện về Văn lại trở nên bi kịch. Văn cho Quang biết: Do phải đi lại để giám sát nhiều cơ sở kinh doanh có giá tổng cộng gần 10 tỷ, Văn phải thuê một người đàn ông khác để quản lý khách sạn “Hói quê”. Cũng vì bối cảnh như vậy cho nên cô vợ trẻ của Văn đã trở thành bồ của người giúp việc. Văn đã đuổi vợ ra khỏi nhà, bán luôn khách sạn và chuyển đi tới một nơi rất xa mua đất làm trang trại trồng cao su để tạo lập lại sự nghiệp mới của mình.
Đối ngược lại hoàn cảnh của Văn, Văn đã được chứng kiến sự thay đổi chóng mặt của Hói Nồi trong đó có sự thay đổi về cuộc sống của Quang. Quang vừa là một quan chức của huyện lại là chủ một trang trại nuôi tôm thành công . Trước tình cảnh éo le của bạn, Quang đã khuyên Văn hãy trở về Hói Nồi để sinh sống quãng đời còn lại với Quang và quê hương làng Quỳnh. Dù Văn không đủ can đảm để trở về làng cũ sinh sống, nhưng tại lần gặp này tại quê hương, hai người bạn đã có thêm chiêm nghiệm sâu sắc về quê hương.
Cũng như cái thời chăn vịt của tuổi thơ, lần gặp này Quang đã nói với Văn những lời gan ruột và đầy niềm xúc động, tự hào về về quê hương, về Hói Nồi: “Quá nửa đời người đi rất nhiều nơi thăm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước và trên thế giới và mỗi lần đi qua các bản làng xa lạ, tôi lại đau đáu nghĩ về tuổi thơ, về Hói Nồi của Làng Quỳnh quê tôi, ít nơi nào có được”.
Cuộc gặp với Quang ở Hói Nồi đã giúp cho Văn nhận ra một cách sâu sắc hơn: Quê hương là nơi sẵn sàng cưu mang che chở, là điểm tựa vững chắc cho cho mọi người và là nguồn động viên an ủi lớn nhất cho mỗi con người kể cả khi người ta đã ê chề thất bại trên đường đời.
Ngoài việc ngợi ca tình bạn và lòng yêu quê, tự hào hết mực về quê hương của mình, “Trở lại Hói Nồi” còn đưa ra lời cảnh tỉnh: Con người khát khao hạnh phúc, tìm được hạnh phúc không là điều dễ dàng chút nào (nhân vật Văn). Nhưng trong cuộc sống của thời kinh tế thị trường với sự băng hoại của đạo đức có một bộ phận không ít công dân đã đánh mất phẩm giá và hạnh phúc của mình một cách dễ dàng (nhân vật vợ Văn, cảnh tượng khách sạn Hói Quê của Văn thì mất, trang trại nuôi tôm của Quang ở Hói Nồi thì mở rộng và phát triển). “Trở lại Hói Nồi” đã đưa ra thông điệp: Mỗi con người luôn phải tỉnh táo để giữ gìn hạnh phúc của mình. Hạnh phúc của mỗi người còn phụ thuộc vào cả chính mức độ tình cảm của mình đối với quê hương.
Mảng hiện thực thứ hai được Hồ Ngọc Quang phản ảnh thành công trong “Trở lại Hói Nồi” là đã khắc họa lại những phẩm chất tốt đẹp của một số chính khách và vai trò của họ trong sự phát triển kinh tế xã hội của huyện Quỳnh Lưu. Chân dung các chính khách trong tuyển tập được miêu tả trong các truyện ký và bút ký “Bí thư huyện ủy”, “Dấu ấn trên đất Quỳnh”. Hai bí thư huyện ủy mà Hồ Ngọc Quang đã làm hiện dậy một cách sinh động và để lại niềm cảm phục cho người đọc: Đó là ông Nguyễn Hữu Đợi - Bí thư huyện ủy của Quỳnh Lưu thời còn chiến tranh chống Mỹ và Bí thư huyện ủy đương thời của Quỳnh Lưu ông Hoàng Danh Lai.
Ông Đợi được Hồ Ngọc Quang miêu tả với những phẩm chất nổi bật và những câu nói để đời. Ông là con người hành động. Khi Thái Bình là tỉnh 5 tấn, ông Đợi cử một đoàn cán bộ 24 người ra học tập Thái Bình. Sau thời điểm đó năng suất lúa của huyện Quỳnh Lưu đạt cao hơn nhiều so với tỉnh Thái Bình. Dưới ngòi bút giàu tính hiện thực và mang tính triết luận cao với Trở lại Hói Nồi nhân vật Bí thư huyện ủy Nguyễn Hữu Đợi đã hiện ra trước mắt người đọc như một người anh hùng.
Ông Hồ Đức Phớc nguyên Bí thư tỉnh ủy, nay là Bộ trưởng Bộ Tài chính, người có thời gian dài sống và làm việc với Bí thư Nguyễn Hữu Đợi đã nhắc lại một kỷ niệm đẹp về ông Bí thư Nguyễn Hữu Đợi: “Có lần bác ấy kể lại với tôi là nhà cách huyện ủy chỉ mấy trăm mét. Chiều đến thấy khói nấu cơm bốc lên nghi ngút mà không dám về nhà mặc dầu rất nhớ bữa cơm chiều quây quần bên vợ con nhưng nghĩ anh em ở xa sẽ buồn bỏ về, nên ở lại cơ quan với anh em”.
Một điểm nổi bật khác của ông Nguyễn Hữu Đợi đã được Hồ Ngọc Quang khẳng định thêm: Ông là người kiên trung tuyệt đối trung thành với Đảng. Thành tựu mà ông để lại cho đời đó là thời ông lãnh đạo đã làm đến cùng để xây dựng được công trình thủy lợi Vực Mấu, một công trình chứa 75 triệu mét khối nước cung cấp nước tưới cho 4 ngàn hecta lúa hai vụ.
Còn về người Bí thư huyện ủy thứ hai là ông Hoàng Danh Lai. Điều mà ông Hoàng Danh Lai đưa đến cho huyện Quỳnh Lưu là xây dựng khối đoàn kết trong Đảng bộ và nhân dân huyện Quỳnh Lưu. Đoàn kết để phát triển kinh tế xã hội…. Điều mà Bí thư huyện ủy Hoàng Danh Lai làm được không chỉ do anh phát ngôn mà đã được các đồng chí lãnh đạo khác trong huyện ủy ghi nhận: “Dịp đi Cà Mau với các anh lãnh đạo huyện, ở cùng phòng với anh Lê Xuân Kiên, Phó bí thư thường trực, tôi chia sẻ với anh là tôi đã đi nhiều, tiếp xúc với nhiều nơi, nhiều người đều đánh giá cao và ngưỡng mộ cấp ủy huyện mình có tính đoàn kết và thống nhất cao. Anh Kiên nói: “Chúng ta đạt được nhiều thành tích vì chúng ta đoàn kết. Không phải đoàn kết là xuôi chiều không đấu tranh, ngại va chạm mà chính là thường xuyên trao đổi ý kiến với nhau, nếu có dư luận trái chiều thì trong các cuộc giao ban Thường trực hàng tuần sẽ trao đổi thảo luận tìm ra chân lý như thế dễ thống nhất với nhau hơn”.
Nhà văn Hồ Ngọc Quang trong bút ký “Dấu ấn đất Quỳnh” còn nói rõ thêm: “Vâng đúng như bí thư Hoàng Danh Lai nói, Quỳnh Lưu trong mấy chục năm qua đã giữ được ổn định xã hội, kinh tế văn hóa phát triển là nhờ cấp ủy có được sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và cũng như thế nên đã chọn lựa được người đứng đầu huyện vừa có tâm vừa có tầm vừa có tài”. Chính vì xây dựng được khối đoàn kết vững mạnh mà các kỳ Đại hội Đảng ở Quỳnh Lưu đều trở thành ngày hội của toàn dân”.
Mảng hiện thực thứ ba nổi bật được khắc họa trong “Trở lại Hói Nồi” là mảng bút ký ngợi ca con người Quỳnh Lưu hăng say trong lao động (“Những bông hoa dâng Bác”, “Những người có đạo”, “Vua bếp bạn tôi”,...).
Trong tập ký “Trở lại Hói Nồi” của anh có thêm 2 bút ký viết về hiện thực của các địa bàn ngoài Quỳnh Lưu: Bút ký “Tình đất Tương Dương” phản ảnh những thành công của một huyện miền núi cao của tỉnh Nghệ An trong công cuộc xây dựng nông thôn mới. Bút ký “Bầu bạn Yên Thành” trong tôi là sự giãi bày tình cảm mến yêu của tác giả với nhà thơ Phan Văn Từ một bạn văn có đời sống chân thành mộc mạc như lão nông và những bạn văn chương và đồng nghiệp mến yêu của nhà văn ở huyện lúa Yên Thành.
Tập truyện và ký “Trở lại Hói Nồi” và những sáng tác mà nhà văn Hồ Ngọc Quang đã xuất bản trong hàng chục năm qua (từ năm 1980 đến nay) đã khẳng định nhà văn Hồ Ngọc Quang là một trong số ít nhà văn nổi trội đã góp phần tạo nên bước phát triển mới của nền văn xuôi của Nghệ An. Mặt khác Hồ Ngọc Quang ngoài tư cách chung là một nhà văn của Nghệ An, của cả nước, anh còn là một trong những người có số lượng bài viết đậm đặc nhất và thành công hơn cả về làng Quỳnh Đôi và huyện Quỳnh Lưu quê hương của nhà văn.

Từ hơn 60 năm nay, bạn đọc Nam Định và cả nước đã rất quen thuộc với tên gọi, cũng là bút danh: Hoàng Trúc...
Bình luận