Trưng Nữ Vương: Bản hùng ca độc lập dân tộc
Nhà văn Phùng Văn Khai được biết đến là một tác giả viết nhiều tiểu thuyết lịch sử với 6 bộ gồm: “Phùng Vương”, “Ngô Vương”, “Nam Đế Vạn Xuân”, “Triệu Vương phục quốc”, “Lý Đào Lang Vương”, “Lý Phật Tử định quốc” và gần nhất anh cho ra mắt bộ tiểu thuyết thứ 7 “Trưng Nữ Vương”. Phóng viên đã có cuộc trò chuyện với nhà văn Phùng Văn Khai xoay quanh bộ tiểu thuyết này.
PV: Thưa nhà văn Phùng Văn Khai, anh vừa mới xuất bản bộ Tiểu thuyết lịch sử “Trưng Nữ Vương” 02 tập với hơn 700 trang in, mở đầu là “Bài ca Trưng Nữ Vương” với hai câu thơ chính là câu đối ở Đền thờ Mê Linh - Hà Nội, nơi thờ nhị vị Trưng Vương: “Đồng trụ triết hoàn, Giao Lĩnh trĩ - Cẩm Khê doanh trạc, Hát Giang trường” đã nói lên tinh thần quật cường và sự trường tồn của dân tộc Việt luôn tươi xanh mãi mãi, mặc cột đồng Mã Viện đã gãy đổ từ lâu. Khởi đầu tiểu thuyết như vậy, có phải là sợi chỉ đỏ, thông điệp xuyên suốt của “Trưng Nữ Vương”?
Nhà văn Phùng Văn Khai: Quả thực đúng là như vậy! Xin nói dài dòng một chút. Câu đối trên là một trong những câu đối hay nhất tại hệ thống đình, đền, chùa, miếu thờ Hai Bà Trưng trên khắp cả nước. Đây chính là tinh thần của người Việt suốt nghìn năm lịch sử. Chúng ta cách thời đại Trưng Vương khoảng gần 2000 năm (40-2023) có thể nói là rất xa rồi. Song tinh thần độc lập dân tộc luôn là một thể thống nhất, khát vọng ngày trước của các cụ luôn truyền mãi tới hôm nay.
Tiểu thuyết “Trưng nữ vương”
Trưng Nữ Vương là bộ tiểu thuyết thứ 7 của tôi đều trên tinh thần ấy. Càng có độ lùi thời gian, các dấu mốc lịch sử càng cần các thế hệ con cháu của Trưng Vương hôm nay phải có ý thức vun đắp và làm sáng tỏ. Đây cũng là trăn trở rất lớn khi thực hiện Trưng Nữ Vương. May mắn tôi luôn được sự ủng hộ của nhiều người, nhất là giới nghiên cứu khoa học lịch sử cung cấp tư liệu. Ban quản lý di tích đền thờ Trưng Vương ở Mê Linh đã tạo điều kiện và cung cấp tư liệu quý. Các nhà văn đi trước như Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, đặc biệt là tiến sĩ sử học Đinh Công Vỹ luôn động viên và cung cấp các tài liệu liên quan để tôi hoàn thành bộ sách với những thông điệp như bạn vừa đề cập đến.
PV: Từ những chia sẻ của nhà văn, đã hé lộ và khơi dẫn nhiều vấn đề khác liên quan tới lịch sử dân tộc, nhất là đối với các anh hùng giải phóng dân tộc như Trưng Trắc, Trưng Nhị. Điều này có gì cần phải làm rõ, thưa anh?
Nhà văn Phùng Văn Khai: Đúng là có vấn đề cần phải làm rõ ở đây. Đến hôm nay, còn có không ít bạn trẻ không phân biệt được thế nào là anh hùng dân tộc và anh hùng giải phóng dân tộc. Cũng không hoàn toàn lỗi ở các bạn, bởi chỉ cần tinh ý một chút, tư duy một chút sẽ thấy ngay anh hùng giải phóng dân tộc là các vị anh hùng đã lãnh đạo nhân dân đánh đổ ách đô hộ ngoại bang giành độc lập dân tộc như các vị Trưng Vương, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Lê Lợi… và hôm nay chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Còn anh hùng dân tộc cũng rất nhiều như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ,...
Như thế có thể thấy, các vị anh hùng của Việt Nam ta thời nào cũng có, ở đâu cũng được nhân dân ngưỡng vọng và ghi nhớ công lao. Đây chính là nét đẹp văn hoá của con người Việt Nam, nền tảng kiến thức để mỗi nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử lấy làm hồn cốt cho ngòi bút của mình.
Hai Bà Trưng theo sử sách mang họ Hùng, dòng dõi Hùng Vương, thuộc hàng trâm anh thế phiệt. Cặp song sinh Trưng Trắc - Trưng Nhị là cặp nữ nhân vật lịch sử đặc sắc nhất trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam. Đánh giặc, khai quốc. Xưng vương, phong chức tước, đất đai ngàn dặm cho đông đảo tướng lĩnh, tù trưởng các sắc tộc người Việt, người Hán, ai nấy đều một lòng tuân phục theo nữ vương. Đối với nước trung nghĩa kiên cường, cùng bách dân gỡ nạn nước giành độc lập dân tộc vang danh bốn biển. Đối với nhà theo lời thề buổi phất cờ tụ nghĩa, trả thù nỗi chết oan của người chồng Thi Sách cũng là một thủ lĩnh lừng danh đất Chu Diên, vì có ý kình chống với bọn Thái thú Tô Định mà bị giết. Nữ vương đã tuyên cáo giết Tô Định, trả lại danh tiếng cho chồng cũng là cổ kim hiếm có. Cũng trong công cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc của Hai Bà Trưng, những đấng nam nhi, anh hùng hào kiệt theo về với hai bà vô cùng đông đúc.
PV: Viết về một triều đại đã lùi xa như vậy, hẳn nhà văn sẽ gặp khó khăn không ít? Vấn đề mang mặc, trang phục chẳng hạn? Tượng binh chiến giáp của Trưng Vương sẽ được huấn luyện và chiến đấu như thế nào? Các chiến thuyền sẽ được tổ chức đóng và chiến đấu ra sao? Điều này nhà văn phải giải quyết như thế nào?
Nhà văn Phùng Văn Khai: Bạn đã đặt ra nhiều câu hỏi với biên độ rất rộng lớn nhưng thú vị đối với tôi. Là người viết tiểu thuyết lịch sử, nhà văn buộc phải trả lời và trả lời thấu đáo, đúng với sự thực lịch sử, và cao hơn là tầm tư tưởng trong tác phẩm từ những sự kiện lịch sử đó. Đây là điều sống còn đối với mỗi nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử. Anh có quyền hư cấu trong sáng tạo tác phẩm, nhưng tuyệt nhiên không được xa rời, càng không được bôi đen lịch sử. Nếu nhà văn chép lại lịch sử y như nó vốn có sẽ là những trang viết khô cứng, không có hồn vía, rất ít lợi ích với bạn đọc.
Ngược lại, nếu nhà văn hư cấu quá đà, nhân vật lịch sử quá xa rời thực tế không còn đúng với như nó vốn có cũng tai hại không kém. Bởi khi đó sẽ là thực - giả bất phân, người đọc không còn phân biệt được đúng - sai, thiện - ác, chính - tà, sẽ là những mầm tai hoạ khi thế hệ sau tìm hiểu về lịch sử dân tộc. Bởi vậy, các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử không những cần phải có vốn kiến thức rộng lớn, sâu sắc, mà còn rất cần cái tâm trong sáng, đúng đắn, nhân văn. Chính điều này quyết định tầm vóc của nhà văn và tác phẩm.
Về loạt câu hỏi bạn vừa nêu trên, tác giả đã phải giải quyết bằng hàng chục, thậm chí là hàng trăm cuộc đi điền dã khắp các tỉnh, thành có đình, đền, chùa, miếu thờ nhị vị Trưng Vương để tìm hiểu phong tục, tập quán, truyền thuyết dân gian, lễ hội, các nghi thức thờ cúng, các làng nghề cổ truyền, việc mang mặc các thời kì khác nhau, canh tác sản xuất nơi miền núi, vùng đồng bằng, bến sông, bãi chợ, các làng nghề rèn, nghề dệt, nghề đóng thuyền, dựng nhà cửa, khai mỏ đồng, mỏ thiếc, cách thức vận chuyển giao thương đường bộ, đường thuỷ; cách thức săn bắt và thuần dưỡng voi rừng, việc tổ chức các phường săn vùng thượng du thời thượng cổ... hàng năm trời. Từ kiến thức trong dân gian, cộng với kiến thức trong hệ thống chính sử đã giúp nhà văn có được nền tảng để trả lời các câu hỏi trên bằng những trang văn như bạn thấy.
Nhà văn Phùng Văn Khai tặng sách “Trưng Nữ Vương” cho Học viện Quốc phòng.
PV: Vậy bài học lịch sử nào được rút ra từ những đặc điểm nổi trội, ưu việt ấy? Đến hôm nay, chúng ta cần phải phát huy những giá trị hữu ích như thế nào từ khát vọng độc lập dân tộc của thời đại Trưng Vương?
Nhà văn Phùng Văn Khai: Tôi luôn cho rằng, có rất nhiều bài học lịch sử đã được rút ra và được vận dụng linh hoạt trong đời sống hôm nay từ thời đại Trưng Vương. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều vị nguyên thủ Quốc gia, trong đó có các đời Tổng thống Mỹ. Tổng thống Donald Trump khi đến thăm chính thức Việt Nam đã nhắc đến Trưng Nữ Vương. “Ở Mỹ, chúng tôi hiểu rằng, không có gì quý giá bằng quyền được sinh ra, độc lập và tự do. Chính nhận thức đó dẫn dắt chúng tôi trong suốt lịch sử đất nước. Nó tạo cảm hứng cho chúng tôi dấn thân và đổi mới nhiều hơn. Những vị chủ nhà Việt Nam của chúng ta cũng từng trải qua cảm xúc đó không chỉ trong 200 năm mà là gần 2.000 năm.
Vào độ năm 40 sau Công nguyên, lúc Hai Bà Trưng đánh thức tinh thần của người dân đất nước này. Đó là khi nhân dân Việt Nam đứng lên vì nền độc lập và tự hào của các bạn. Những người yêu nước, anh hùng trong lịch sử nắm giữ những câu trả lời cho những câu hỏi lớn về tương lai và thời đại của chúng ta. Họ nhắc nhở chúng ta là ai, sứ mệnh của chúng ta là gì. Cùng với nhau, chúng ta có sức mạnh để nâng người dân và thế giới lên những tầm cao mới chưa từng có. Hãy chọn tương lai của lòng yêu nước, thịnh vượng, niềm tự hào chứ không phải nghèo đói hay sự tôi tớ”.
Chúng ta thấy đằng sau đó, chính là sự công nhận từ những phương trời khác, hiện giờ đang văn minh hơn, các chỉ số xã hội ở bậc cao cái nhìn bình đẳng và tôn trọng người Việt Nam hôm nay và cả tổ tiên chúng ta ngày trước. Đó không chỉ là sự tinh tế trong ứng xử ngoại giao, mà còn là sự trọng thị về văn hóa, văn hóa đánh giặc, văn hóa khát vọng và thực hành độc lập trước kẻ thù hùng mạnh của dân tộc Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, chính khát vọng giành độc lập dân tộc của triều đại Trưng Vương đã lần lượt mở ra những dấu mốc huy hoàng của lịch sử Việt Nam các thời kì tiếp đó. Tiểu thuyết lịch sử Trưng Nữ Vương cũng chính là một trong những dấu mốc quan trọng trong hành trình sáng tác của tôi.
Xin trân trọng cảm ơn nhà văn!
“Là người viết tiểu thuyết lịch sử, nhà văn buộc phải trả lời và trả lời thấu đáo, đúng với sự thực lịch sử, và cao hơn là tầm tư tưởng trong tác phẩm từ những sự kiện lịch sử đó. Đây là điều sống còn đối với mỗi nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử. Anh có quyền hư cấu trong sáng tạo tác phẩm, nhưng tuyệt nhiên không được xa rời, càng không được bôi đen lịch sử. |

Tôi được gặp mặt nhà thơ Trần Đăng Khoa từ trại viết Văn nghệ quân đội tại Đồ Sơn năm 1996. Tiếp đó anh Khoa nổi...
Bình luận