Chuyện làng văn nghệ: Phạm Tiến Duật suốt ngày làm thơ
Đó là khoảng năm 1956-1957. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cùng mẹ sống ở quê là làng Hay, xã Đào Giã, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Tôi cũng sống ở huyện Hạ Hoà cùng tỉnh này. Phạm Tiến Duật là em họ bố tôi về bên ngoại, vậy nên tôi phải gọi là chú tuy chỉ hơn tôi 5 tuổi (chú sinh năm 1941, tôi năm 1946).
Thời gian này, cứ nghỉ hè là bố tôi lại gửi tôi cho chú kèm cặp việc học ôn vì sợ không có bố ở nhà, mẹ sẽ chiều mà để tôi chơi bời lêu lổng, bỏ bê chuyện học hành. Khi đó bố tôi làm việc ở Nhà máy chè Phú Thọ cách nhà 20km. Bố tôi để tôi ở hẳn nhà chú trong suốt 3 tháng hè. Nói là để kèm tôi học chứ sự thực là chú chẳng phải kèm gì, phần vì tôi luôn tự giác, không để chú phải nhắc việc học, phần vì suốt ngày chú mê mải làm thơ, chẳng để tâm đến bất cứ việc gì. Chú cứ như người nghiện thơ, như người ta nghiện rượu, nghiện thuốc vậy.
Tôi nhớ lúc đó chú học cấp 3 trường Hùng Vương ở thị xã Phú Thọ, cách nhà hơn chục cây số nên phải ở trọ. Nhưng khi tôi ở nhà chú là dịp nghỉ hè. Chú ngủ dậy rất muộn, còn sau tôi. Có ngày phải 9 giờ sáng chú mới dậy. Ra khỏi giường là lại chúi mũi vào làm thơ. Mẹ chú là bà Tổng Phan phải nhắc chuyện ăn uống và tắm giặt.
Cứ làm được bài thơ nào là chú lại đọc cho tôi nghe rồi hỏi:
- Mày thấy thế nào?
Khi ấy, tôi chưa biết cần phải tế nhị để không làm mất lòng người hỏi mình nên trả lời rất thật, đúng ý nghĩ:
- Cháu chẳng thấy thế nào.
Chú có vẻ mất hứng:
- Thằng này lạ nhỉ. Là mày có thấy thích không?
- Không, cháu thấy bình thường.
- Mày học môn văn thế nào? Có thích học văn không?
- Cháu học khá toàn diện, luôn xếp thứ nhất ở lớp và rất thích môn văn.
- Vậy mà mày lại nói không thích những bài thơ chú vừa đọc.
Tôi lại nói rất thật:
- Vì cháu thấy không hay.
- Vậy là mày không thích thơ rồi. Thế mà nói là học giỏi nhất lớp.
- Cháu nói thật mà. Chú không tin, cháu sẽ nói bố cháu đem sách vở của cháu đến đây cho chú xem những bài tập làm văn cháu luôn được điểm 5 (5/5 – điểm Liên Xô cũ).
Nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Tôi để ý thấy chú Duật làm thơ ra giấy nháp rất nhiều. Bài nào cũng dập, xóa rồi chép đi chép lại nhiều lần. Xong, chú cho vào phong bì, dán tem rồi mang ra bưu điện xã gửi đi. Phong bì chú hay đề là gửi đến báo Nhân dân, Cứu quốc. Nhưng chẳng thấy họ hồi âm gì cho chú.
Chú không nản mà vẫn tiếp tục gửi. Có lần chú nói với tôi:
- Chú gửi đăng báo mà chẳng bài nào được đăng. Cũng chẳng thấy họ trả lời.
Hồi đó, chú Duật làm phải tới cả trăm bài thơ rồi lần lượt gửi đến các báo ở dưới Hà Nội. Tôi nhập tâm được mấy câu thơ mở đầu bài thơ Mùa gặt của chú, đến bây giờ vẫn còn nhớ:
Đồng quê lúa đã chín vàng
Làng trên, xóm dưới tưng bừng hân hoan
Tay liềm, tay hái rộn ràng
Bao cô thôn nữ lại càng xinh tươi…
Mấy câu thơ trên không hay nhưng tôi nhớ được vì sau đó chú Duật nhận được thư của báo Nhân dân gửi cho chú với lời nhận xét thẳng thắn, chân tình về bài thơ Mùa gặt là thơ của chú còn quá thật thà, dễ dãi, vần điệu chưa tự nhiên. Chú hỏi tôi:
- Mày thấy người ta nhận xét như vậy có đúng không?
Tôi khi ấy là một thằng cu 10 tuổi, đâu có hiểu gì nhiều về thơ phú nên chỉ biết trả lời chú:
- Cháu không biết rõ chú ạ, chỉ thấy là chưa thích bài thơ lắm.
Tôi ở nhà chú một mùa hè, được mẹ chú mà tôi gọi là bà trẻ rất quý. Nhà bà nuôi được rất nhiều gà nên thi thoảng lại mổ ăn, chẳng đợi có dịp gì. Bà luôn dành hẳn cho tôi chiếc còng mà không chặt ra. Tôi nhớ rõ luôn được bà sai ra sau nhà hái lá chanh, rửa sạch rồi thái nhỏ như sợi thuốc lào rắc lên đĩa thịt gà luộc. Chú Duật thì chặt thịt nhưng bà luôn kêu là chú chặt một nhát chưa đứt mà phải nhiều nhát nên thịt bị nham nhở, không đẹp. Từ đó, bà không để chú chặt nữa.
Chú hay rủ tôi ra suối câu cá. Chú kiếm cho tôi một cần. Nhưng rất ít khi câu được cá. Tôi thì không biết câu. Chú thì cứ mải nghĩ thơ nên có khi cá đã ăn hết mồi mà chú không giật nên cá chuồn mất, nhấc cần lên thì không còn mồi nữa (mồi bằng giun).
Nói suốt ngày chú làm thơ quả là không sai. Sau khi ngủ dậy vào lúc 8-9 giờ sáng, thường chú bỏ ăn sáng để chúi đầu vào làm thơ. Ăn cơm trưa xong, chú đánh giấc ngủ đến 3 giờ chiều rồi tiếp tục làm thơ. Tối, có khi chú thức đến 12 giờ đêm hoặc hơn nữa để lại nghĩ thơ. Đêm nào bà trẻ của tôi - mẹ chú - cũng phải giục chú đi ngủ. Mà phải giục đến dăm bảy lần chú mới chịu lên giường. Có lần tôi vớ được cuốn sổ gọi là “sổ liên lạc giữa nhà trường và gia đình”, đọc trộm, thấy thầy giáo của chú luôn nhận xét chú đại ý là thông minh, học được, có năng khiếu về môn văn nhưng kết quả luôn bị hạn chế do lười làm bài tập, chỉ ngẩn ngơ thơ phú...
Đến khi tôi chuyển về thị xã Phú Thọ rồi về Hà Nội học thì từ đó, không bao giờ gặp chú Duật nữa. Cho mãi đến thập niên 80 của thế kỷ trước, khi tôi làm việc ở báo Văn hóa Nghệ thuật thì tình cờ có lần gặp chú trong một cuộc họp. Lúc này chú đã nổi tiếng sau “phi vụ” đoạt giải cao tại cuộc thi sáng tác thơ của báo Văn Nghệ từ trước đó.
Tôi nhận ngay ra chú bởi cái dáng cao cao, vầng trán và cái miệng rộng với cái mũi “nhòm mồm”. Chú mặc bộ quân phục, hình như lúc này vẫn còn ở trong quân đội, chưa chuyển ra ngoài. Chú không nhận ra tôi vì từ một cậu bé hơn 10 tuổi thành một người lớn sẽ khó nhận ra. Sau khi tôi nói rõ về mình, kể lại kỷ niệm sống ở nhà chú mấy tháng hè hồi năm 1957, chú mới nhớ ra. Nhưng vì lúc ấy, chú cũng gặp lại nhiều người quen biết nên hai chú cháu không nói chuyện được nhiều. Tôi nhạy cảm thấy chú có nhu cầu gặp nhiều người khác hơn là gặp lại thằng cháu ngày trước không biết thưởng thức thơ của mình.
Sau đó, trong một hội thảo, không nhớ rõ, tôi có đưa ra một ý kiến khi đánh giá các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đại để là tài năng của một số người trở nên nổi tiếng trong đó tiêu biểu nhất là Phạm Tiến Duật cũng chỉ ở mức độ. Sở dĩ họ rất đình đám, có vẻ rất danh giá là vì nhờ có dãy Trường Sơn, con đường mòn Hồ Chí Minh mà như được cấp thêm giấy thông hành để bước vào làng văn với một ưu thế hơn hẳn người khác không có được vinh dự đó. Quan điểm này về sau tôi có phát triển thêm trong một bài lý luận đăng trên báo Văn Nghệ.
Hình như điều này “bay” đến tai Phạm Tiến Duật nên những lần gặp sau đó, chú đã nhìn tôi bằng ánh mắt khác, hờ hững và lạnh nhạt. Chắc chú cho tôi là cái thằng “láo”, dám coi thường ông chú khi ấy đã rất nổi tiếng mà không nghĩ tôi nói vậy là với tư duy khách quan của một nhà báo, nhà lý luận văn nghệ mà thoát ra khỏi quan hệ họ hàng.
Cũng vì thế mà tôi và chú hầu như không gặp nhau. Nếu có tình cờ cùng gặp ở đâu đó thì chú có vẻ hờ hững, không mặn mà. Biết vậy, tôi cũng chỉ chào chú chiếu lệ mà không hỏi han gì thêm.
Hồi tôi gặp khó khăn khi đứng đầu Nhà Văn hóa Hà Nội vào những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, Phạm Tiến Duật là Tổng biên tập tạp chí Diễn đàn Văn nghệ - cơ quan ngôn luận của Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Lúc này, nhạc sĩ Trần Hoàn làm Phó Chủ tịch của Hội lớn này. Tôi và ông có mối quan hệ thân tình. Ông có ý muốn lấy tôi về làm Phó Tổng biên tập cho chú Duật do biết tôi là cháu của chú và đã có nhiều năm làm báo. Nhưng ông nói cần hỏi qua ý kiến chú trước khi ký quyết định. Tôi biết là chưa chắc chú đã đồng ý. Quả đúng như vậy. Trần Hoàn cho tôi biết là khi ông hỏi, chú đã nói với vị nhạc sĩ nổi tiếng: “Thằng ấy bướng, em khó cầm cương nó”. Thế là việc về nơi đó không thành.
Tôi có người chị họ con ông bác ruột, được chị rất yêu quý. Lúc đó, chị đã về hưu, sống trong Đà Nẵng. Chị ra Hà Nội chơi, nghe tôi kể lại chuyện bị chú Duật ghét, không “ô-kê” việc lấy thằng cháu về làm phó cho mình, đã đến gặp chú, có ý thanh minh cho tôi rằng tôi là đứa thẳng thắn, với ai cũng như vậy, luôn có cá tính mạnh mẽ và bộc lộ rõ quan điểm của mình chứ thực chất là rất ngưỡng mộ, quý nể chú. Chị cho chú biết là tôi rất thích bài thơ Nhớ chỉ có 4 câu mà vô cùng nghệ thuật của chú: “Cái vết thương xoàng mà đi viện/ Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo/ Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến/ Nôn nao ngồi dạy nhớ lưng đèo”. Chị nói với chú là cũng đồng quan điểm với tôi khi nhìn nhận về thơ chống Mỹ do là giáo viên dạy văn ở cấp 3 nên cũng am hiểu về tình hình văn học. Chị ủng hộ quan điểm đánh giá của tôi về một số nhà thơ được coi là “nổi tiếng”.
Dù sao thì nhà thơ Phạm Tiến Duật đã là một tên tuổi lớn trong nền thơ hiện đại giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Qua cuộc đời và sự nghiệp thơ của ông, thấy rõ một điều là không có tài năng nào chỉ đơn thuần là thiên bẩm mà phải qua những năm tháng miệt mài, khổ luyện, vượt qua những thất bại ban đầu để vươn lên mới mong gặt hái được những thành công như mong muốn.

Tối ấy, sau khi biểu diễn ở Ngã ba Đồng Lộc, khi nhắc tới người con gái, nhân vật trữ tình ngày nào của anh, nhạc sĩ...
Bình luận