Vài suy nghĩ về sự thật lịch sử và hình tượng nghệ thuật

Vấn đề sự thật lịch sử và hình tượng nghệ thuật tưởng chừng như đã được giải quyết xong từ lâu. Vậy mà, gần đây lại được xới xáo lên.

1. Sự xới xáo ấy đến từ các nhà nghiên cứu, khảo cứu, sưu tầm, biên soạn văn học sử; đến từ các nhà lý luận phê bình văn học và đến từ các nhà sáng tác văn học sử. Rõ ràng đây là một vấn đề đang nổi cộm trong sinh hoạt học thuật về lý luận phê bình văn học.

Nhất là khi nhà nghiên cứu văn học cổ - cận đại Vũ Bình Lục vừa đưa ra vấn đề cần xem xét lại nhân vật lịch sử Trần Ích Tắc. Ông cho rằng Trần Ích Tắc là nhà tình báo vĩ đại nhất của triều Trần trong 3 lần chống lại sự xâm lược tàn bạo của quân Nguyên Mông. Rằng Trần Ích Tắc đã có công lớn trong việc làm trì hoãn cuộc xâm lược lần thứ 4 của quân Nguyên Mông đối với nước ta lúc bấy giờ. 

Tất nhiên những điều mà nhà nghiên cứu văn học sử Vũ Bình Lục đưa ra và khẳng định đi ngược lại gần như hầu hết những gì mà thông sử đã ghi chép cũng như nhận thức của đại bộ phận công chúng và bạn đọc từ trước tới nay. Điều này làm dấy lên lo ngại về vấn đề mối quan hệ giữa đâu là nhận thức lại sự thật lịch sử khách quan và đâu là xuyên tạc lịch sử. 

Nhưng cũng cần lưu ý rằng, nhận thức lịch sử dưới hình thức thông sử, biên niên sử hay văn chương cũng đều là một quá trình diễn ra liên tục, không phải là một thời khắc. Những ý kiến đồng thuận hay phản đối những gì đã được nhận thức về lịch sử có thể khác biệt, thậm chí trái ngược nhau là điều dễ hiểu. Vấn đề là chúng ta cần phải biết tôn trọng cả hai luồng ý kiến trên, ngõ hầu đem đến cho mỗi người chúng ta một cái nhìn trung thực và khách quan hơn về những hiện tượng lịch sử hiện vẫn còn gây tranh cãi.

2. Trước hết, nếu các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn chương được mô tả trung thực gần như sao chép lại sự thật lịch sử đã và đang xảy ra trong đời sống thực thì cùng lắm đấy chỉ là một cuốn biên niên sử, chứ không thể là một tác phẩm văn học nghệ thuật tái hiện lại lịch sử. Bởi lẽ một thuộc tính cơ bản nằm ngay trong bản chất cấu thành của tác phẩm văn học nghệ thuật là sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sĩ. Ngay khi một sự kiện lịch sử được đưa vào tác phẩm văn học nghệ thuật tưởng như giống hệt sự kiện đó đã từng diễn ra trong đời sống, thì nó cũng đã phải thông qua lăng kính chủ quan của chủ thể sáng tạo - nghệ sĩ. Lăng kính ấy giống như một cái filter chắt lọc và loại bỏ tất thảy những gì không mang lại giá trị tư tưởng và thẩm mỹ cho hình tượng nghệ thuật của tác phẩm theo quan niệm của nghệ sĩ. 

Một mặt anh ta vừa phải tôn trọng đến mức tối đa sự thật lịch sử, nhưng mặt khác, bằng cảm xúc, tài năng cá nhân, anh ta cần phải sáng tạo ra một thế giới thứ hai - thế giới của cái đẹp (văn học nghệ thuật) với chất liệu và đề tài về lịch sử. Như vậy không có nghĩa nghệ sĩ chỉ là người sao chép lại nguyên si những sự kiện đã từng xảy ra trong đời sống thực. Tôi rất tâm đắc với quan điểm của nhà thơ, nhà bác học, nhà văn hóa lớn thời phong kiến, Lê Quý Đôn (2/8/1726 - 11/6/1784) đã từng cảnh tỉnh tất cả chúng ta rằng: “Những việc chính sử ghi chép, cho dù hoàn hảo đến mấy, cũng không thể hoàn toàn tin theo được. Kẻ đọc sách có thể chỉ căn cứ vào văn mà không xem xét đến sự thực được chăng?”. Nhưng tiếc thay lời cảnh tỉnh ấy chẳng mấy ai nghe, nhất là những người theo phái thủ cựu chỉ biết một mực tin vào thông sử. 

Còn đại văn hào Nga Macxim Gorki khi ông ta nói về vai trò của cảm xúc và tưởng tượng cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật một cách thật sự hóm hỉnh đại ý rằng: Nếu một bài thơ viết về cái bánh mì mà không có gì khác cái bánh mì thật thì người ta sẽ chọn cái bánh mỳ, chứ không ai chọn bài thơ cả.

Đã nói đến sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sĩ cũng có nghĩa là thừa nhận tính không đồng nhất giữa sự thật lịch sử đã từng tồn tại trong đời sống thực và các chi tiết, sự kiện đó được phản ánh vào trong tác phẩm văn học nghệ thuật. Người nghệ sĩ có thể bớt đi hay thêm vào, nhấn mạnh hay làm lu mờ đi một vài chi tiết, sự kiện, con người nào đó đã từng tồn tại trong đời sống thực để phục vụ cho ý tưởng sáng tạo của mình là điều dễ hiểu. Một chi tiết hay một nhân vật nào đó được thêm vào không nhất thiết là có thật, ngược lại nó có thể hoàn toàn được tạo nên bởi sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sĩ (hư cấu), cốt sao cái lịch sử trong tác phẩm văn học nghệ thuật không trở thành kẻ hoàn toàn xa lạ với cái lịch sử đã từng tồn tại trong đời sống thực. 

Hơn thế việc bớt đi hay thêm vào các chi tiết, nhân vật nào đó phải nhằm mục đích tái hiện lại lịch sử ở một cấp độ cao hơn và sâu sắc hơn. Và vì thế nó còn thật hơn cái sự thật mà mọi người đã từng biết từ sự trải nghiệm cá nhân hay từ những cuốn biên niên sử. Đại văn hào Lev Tolstoi đã từng nói đại ý rằng: khi sáng tạo hình tượng cô Anna trong tác phẩm “Anna Karenina” thì trong đầu ông ta có tới hàng ngàn cô Anna khác nhau. Còn đại văn hào Lỗ Tấn cũng nói tương tự như vậy khi mọi người hỏi về nhân vật nổi tiếng A.Q trong tác phẩm AQ chính truyện của ông. Lỗ Tấn đã nói một cách đại ý rằng: nhân vật A.Q của ông có cái đầu ở Triết Giang, cái thân ở Thượng Hải, và đôi chân ở Quảng Đông... Nhưng rõ ràng cái anh chàng AQ và cô Anna là đại diện cho một lớp người nguyên mẫu bằng xương bằng thịt khác, từng tồn tại ở ngoài đời sống thực. Bởi vì AQ và Anna là đại diện cho một lớp người có những nét tương đồng về tính cách và các điều kiện xã hội như thế. Cũng cần khẳng định một cách chắc chắn rằng, sự thật lịch sử bao giờ cũng phong phú và đa dạng hơn hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên hình tượng văn học nghệ thuật lại luôn mang tính khái quát cao độ thông qua trí tưởng tượng và khả năng hư cấu của nhà văn.

Vài suy nghĩ về sự thật lịch sử và hình tượng nghệ thuật - 1

Tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn.

3. Mặt khác người nghệ sĩ phản ánh lịch sử chủ yếu là bằng các cung bậc của cảm xúc và tình cảm cá nhân, chứ không dừng lại ở ranh giới đúng hay sai, thật hay giả so với nguyên mẫu lịch sử như các nhà biên niên sử thường làm. Tính không đồng nhất giữa sự thật lịch sử đã từng tồn tại như nó vốn có trong đời sống và những chi tiết phản ánh sự thật đó vào tác phẩm văn học nghệ thuật chính là hư cấu nghệ thuật - một đặc tính của sáng tạo văn học nghệ thuật.

Như vậy, vấn đề ở đây không phải là được hay không được quyền hư cấu, được hay không được quyền làm cho nó so le giữa sự thật lịch sử và hình tượng nghệ thuật, mà chính là giới hạn của sự hư cấu hay so le ấy đến đâu và như thế nào để công chúng, bạn đọc có thể chấp nhận được. Người nghệ sĩ có quyền hư cấu thông qua cảm xúc và tưởng tượng bằng những kinh nghiệm chủ quan, trình độ học vấn, thái độ xã hội, hệ sinh thái văn chương của anh ta. Nói một cách chính xác hơn anh ta hoàn toàn có quyền tái hiện lịch sử theo cách riêng của mình. 

Nhưng người nghệ sĩ tuyệt nhiên không được phép bịa đặt ra lịch sử. Dù khả năng sáng tạo của anh ta có dồi dào và bay bổng đến đâu thì cũng không thể bịa đặt 100% ra một nhân vật lịch sử có thật đã từng tồn tại. Chẳng hạn như trận chiến đấu chống quân Tống trên bờ sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt diễn ra vào năm 1076 là một sự thật lịch sử cho đến nay không một ai chối cãi. Vì thế trong tác phẩm văn học nghệ thuật không thể nói rằng trận chiến đấu là do Lê Lợi cầm quân hay Lý Thường Kiệt chống quân Tống ở Nghệ An vào thế kỷ XVIII chẳng hạn, là hư cấu nghệ thuật. Cũng vậy triều đại nhà Hồ chỉ tồn tại trong vòng 7 năm từ 1400-1407 không thể nói thành 70 năm, tức là từ 1400 - 1470 được. Làm như thế gọi là xuyên tạc và bịa đặt ra lịch sử, chứ không phải là hư cấu nghệ thuật. 

4. Trong tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh hình tượng quận chúa Quỳnh Hoa, người vợ quá cố của Hồ Nguyên Trừng, con trai của Hồ Quý Ly, là một nhân vật hoàn toàn hư cấu nhằm bộc lộ và nhấn mạnh thêm tính cách của một Hồ Nguyên Trừng, con người đầy lòng trắc ẩn nhưng cũng dễ dàng tha thứ cho người khác. Nhưng cơ bản toàn bộ sự thật giai đoạn lịch sử thời cuối Trần đầu Hồ không vì thế bị bóp méo hay xuyên tạc.Vài suy nghĩ về sự thật lịch sử và hình tượng nghệ thuật - 2

Hoàng đế Hồ Quí Ly (1336-1407). Nguồn ản: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Cũng tương tự như thế đoạn miêu tả Hồ Quý Ly đứng lặng im phía sau để chờ vợ cầu kinh bên bàn thờ Phật, mà theo nhà văn Nguyễn Xuân Khánh sinh thời cho hay là do ông hư cấu, nhưng lại hoàn toàn có thể chấp nhận được. Bởi lẽ trong các tài liệu lịch sử còn lưu trữ được về Hồ Quý Ly không có chi tiết đó. Chính nhờ vào những chi tiết đó mà bạn đọc hôm nay có thêm điều kiện để hiểu rõ một nét tính cách của ông vua nhà Hồ. Đó chính là ở chỗ sâu thẳm của vị vua này còn có một Hồ Quý Ly trong tư cách con người cá nhân luôn cảm thấy cô đơn và hướng thiện. 

Cũng vì thế qua tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, người đọc lại có thêm cơ hội để nhận thức sâu hơn sự thật về giai đoạn lịch sử thời bấy giờ. Giai đoạn đó đã làm nảy sinh ra những người táo bạo, cách tân, mưu lược, đầy tham vọng và cô đơn như Hồ Quý Ly; anh hùng, dũng mãnh, có tài binh lược như hai vị tướng Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh; lũ người bất tài vô dụng, nhưng trung thành với một triều đại đã mục nát như Trần Nguyên Hàng, Nguyên Dận, Nguyên Uyên; và còn có cả những người như quận chúa Quỳnh Hoa, cô gái Thanh Mai... những người phụ nữ Việt Nam rất mực thuỷ chung, hết lòng thương yêu chồng con và cũng sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, lòng nhân.

Còn nhà chép sử Văn Hoa, theo nhà văn Nguyễn Xuân Khánh là một nhân vật hoàn toàn hư cấu. Thực tế những trang viết về Hồ Nguyên Trừng, cô gái vườn mai, nhà chép sử Văn Hoa, Phạm Sinh hay cuộc hội ngộ giữa Thượng tướng Trần Khát Chân và Hồ Nguyên Trừng, Hồ Nguyên Trừng với Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi... đều là những trang có nhiều yếu tố hư cấu nghệ thuật, nhưng thực sự đã gây xúc động lòng người. Cuộc chiến đấu chống quân Chiêm Thành hay các Hội thề Đồng Cổ và Đốn Sơn đã được tác giả khắc họa bằng một cảm quan hoành tráng của những sự kiện quân sự và văn hóa trọng đại mang tầm cỡ quốc gia. 

5. Tóm lại sẽ là sai lầm nếu ai đó cho rằng khi tái hiện những sự kiện và nhân vật lịch sử, người nghệ sĩ không được phép làm thay đổi lịch sử như nó vốn có. Ngay cả những cuốn biên niên sử đương thời hay hậu thế cũng không thể nào ghi chép một cách đầy đủ và chi tiết toàn bộ những sự kiện đã từng xảy ra trong triều chính cũng như trong đời sống thường nhật của người dân trăm họ. Bởi vì những sự thật đã từng xảy ra trong đời sống thực được ghi chép lại ở bất cứ thời đại lịch sử nào vẫn không thể tránh khỏi các điều kiện kinh tế, chính trị, đạo đức, lịch sử và xã hội đương thời, cũng như tri thức, tầm hiểu biết và cái tâm của nhà chép sử chế định, nên tính nghiêm ngặt lịch sử ít nhiều đã bị giảm thiểu. 

Theo tôi vấn đề này đã được Nguyễn Xuân Khánh lý giải một cách khá thuyết phục qua sự hư cấu hình tượng nhà chép sử Văn Hoa trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly của ông. Như vậy điều quan trọng chỉ còn là mức độ và giới hạn cho phép nhà nghệ sĩ hư cấu khi sáng tạo các sự kiện lịch sử trong tác phẩm văn học nghệ thuật để làm sao cho công chúng có thể tiếp nhận được bộ mặt thật của lịch sử qua các tác phẩm văn học nghệ thuật còn thật hơn, sâu hơn và cũng cao hơn cái lịch sử đã từng tồn tại. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tâm đức và tài năng sáng tạo của nghệ sĩ.

Đỗ Ngọc Yên

Tin liên quan

Tin mới nhất

Thi ca yêu nước và các nhà thơ cách mạng

Thi ca yêu nước và các nhà thơ cách mạng

Buổi sinh hoạt chuyên đề “Thi ca yêu nước và các nhà thơ cách mạng” do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh 2/9 đã tập trung bàn về một phẩm chất đặc biệt của dòng thơ cách mạng kháng chiến 1945-1975 là thi pháp trữ tình lãng mạn – điều đã làm nên sức sống trường tồn của thi ca đương đại Việt Nam.

Phi tần từng được hoàng đế sủng ái nhất hậu cung, sinh 6 người con nhưng cuối đời chịu cảnh cô quạnh

Phi tần từng được hoàng đế sủng ái nhất hậu cung, sinh 6 người con nhưng cuối đời chịu cảnh cô quạnh

Từng là phi tần được hoàng đế sủng ái nhất chốn hậu cung, người phụ nữ này đã hạ sinh 6 người con, giữ vững địa vị cao quý và sự yêu thương từ nhà vua. Tuy nhiên, cuộc đời không mãi êm đềm, khi về già, bà phải đối mặt với sự cô độc, lẻ loi trong những năm tháng cuối đời khiến bao người cảm thán.