Truyền thống văn hóa của họ tộc Ê Đê ở Tây Nguyên

Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Ê Đê là cư dân lâu đời ở miền trung Tây Nguyên, dân số đứng hàng thứ 12 trong tổng số 54 dân tộc anh em. Theo số liệu mới đây, đồng bào Ê Đê có số dân trên 400.000 người, cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Đắk Lắk, phía nam của tỉnh Gia Lai và miền tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên. Người Ê Đê có các tên gọi khác là: Anak Ea Đê, Ra Đề (hay Rhade), Égar, Đê. Và nhiều nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mdhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Kilê. Người Ê Đê có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Đào), một số từ vựng có nguồn gốc từ Môn-Khmer và một số từ vựng tiếng Pháp.

Đặt tên trước, họ sau

Trong quá trình phát triển, người Ê Đê đã hình thành nhiều dòng họ khác nhau, trong đó có 2 dòng họ chính là Niê và Mlô, cùng nhiều phân họ kép hình thành từ 2 dòng họ này. Người Ê Đê là tộc người duy nhất ở Việt Nam đặt tên theo cấu trúc tên trước họ sau, đây có thể là kết quả ảnh hưởng của văn hóa Pháp. Theo đó, người Ê Đê thường đặt tên theo cấu trúc: nữ giới thì đệm chữ “H” trước tên rồi mới đến họ, thứ tự này là một điều bắt buộc. Cụ thể: H’(tên đệm) + Tên + Họ, ví dụ như tên H'Maryam Niê, H’Či Êban,... Với nam giới, người ta dùng chữ “Y” để đệm tên lót theo cấu trúc “Y” + Tên gọi + Họ. Chữ Y đặt trước tên mang ý nghĩa tốt đẹp, người con trai được đặt tên như là đứa con của Trời (Vàng), ví dụ như Y-Dam Săn Mlô, Y-Arol Ecam,....

Ngày nay, người Ê Đê chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa đạo Tin Lành nên việc sử dụng tên Thánh đã trở nên phổ biến. Các tên Thánh để đặt tên theo tiếng Ê Đê, đối với nam giới, như Y-Abba, Y-Abel, Y-Abraham,... Đối với nữ giới, như: H'Mari, H'Rut, H'Dêbora, H'Madalen, H’E-Wa,... Tuy nhiên ở một số vùng người Ê Đê vẫn giữ cách đặt tên theo nhân vật trong các sử thi của dân tộc, như H’Bia, H’Bhí, Y-Dam Săn, Y-Dam Yi,...

Truyền thống văn hóa của họ tộc Ê Đê ở Tây Nguyên - 1

Nhà dài Ê Đê ở Đắk Lắk

Nhà dài Ê Đê

Tộc người Ê Đê vốn thuộc nhóm cư dân ngôn ngữ Mã Lai, có nguồn gốc lâu đời từ vùng biển đảo. Mặc dù đã chuyển cư vào miền Trung Việt Nam rồi di dân lên vùng đất cao nguyên trung phần đã lâu (khoảng từ cuối thế kỷ VIII đến thế kỷ XV), nhưng trong di sản văn hóa của người Ê Đê, bến nước và con thuyền vẫn in hằn dấu tích. Có thể thấy điều đó trong kiến trúc nhà sàn Ê Đê có hình con thuyền dài, cửa chính mở ra phía trước, cửa sổ mở ở phía hông. Bên trong nhà có trần gỗ hình vòm giống mui thuyền. Nhiều buôn làng Ê Đê trù phú với hàng chục ngôi nhà dài, mái nhà phía trước vát nhọn nhỏ cao trông như những đội thuyền đang rẽ sóng giữa biển khơi.

Nhà của đồng bào Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn thấp, chiều dài từ 15m đến khoảng 200m tùy theo gia đình giàu có và có nhiều người hay ít người. Nhà dài Ê Đê là nhà của những gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ.

Nhà được chia làm hai phần, nửa đằng cửa chính gọi là “Gah” là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bao gồm bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài - gọi là “Kpan” dài tới 20m, bên cạnh là những bộ chiêng, chẻ, trống lớn, nồi đồng, các bình rượu cần ủ sẵn... Nửa nhà còn lại gọi là “Ok”, là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng. Mỗi đầu nhà có một sân sản. Sân sản ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Nhà dài của người Ê Đê được xây dựng bằng các vật liệu lấy trong rừng tự nhiên (ngày nay phần lớn gỗ làm nhà được đồng bào trồng hoặc mua gỗ nhập khẩu ngoài thị trường), như cây gỗ làm cột, kèo; tre, nứa thưng vách, làm sản; có tranh lợp mái... Đây là những loại gỗ tốt, dùng làm cột kèo nhiều chục năm không bị mối mọt, sức chịu đựng mưa nắng bền lâu.

Trong ngôi nhà dài, người Ê Đê chạm khắc nhiều hình con vật gần gũi trong đời sống như voi, cua, cá... Những gia đình khá giả thường chạm khắc một số hoa văn như hình con kỳ đà, con rồng, con rùa... là những con vật xuất hiện trong tín ngưỡng của người Ê Đê, với mong muốn gia đình sẽ gặp nhiều điều may mắn và tránh được những rủi ro. Điều đặc biệt là ngay khi đến ngôi nhà dài của người Ê Đê, du khách đã thấy có 2 cầu thang chính để lên xuống, cầu thang đực và cầu thang cái. Trên cầu thang cái có chạm khắc nổi 2 bầu sữa mẹ và một vầng trăng khuyết, cầu thang đực thì có hình con rùa...

Trong gia đình người Ê Đê, chủ nhà là phụ nữ. Theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế. Đàn ông kết hôn và sinh sống tại nhà vợ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, và có trách nhiệm nuôi dưỡng bố mẹ già. Khi một người con gái lấy chồng, ngôi nhà dài sẽ được tiếp tục nối dài thêm cho gia đình mới. Nhìn vào các cửa sổ của ngôi nhà dài có thể biết cô gái Ê Đê đã có gia đình hay chưa, nếu cửa sổ được mở ra thì người phụ nữ đó đã lấy chồng.

Có thể ví chiều dài nhà dài của đồng bào Ê Đê dài như tiếng chiêng ngân; nếu đứng ở đầu nhà dài mà đánh chiêng thì ở cuối nhà chỉ còn nghe tiếng chiêng vọng rất nhỏ, tựa như tiếng gió rì rào của đại ngàn vọng về.

Truyền thống văn hóa của họ tộc Ê Đê ở Tây Nguyên - 2

Kiến trúc bên trong nhà dài.

Tục nối dây

Tục nối dây (Juê nuê) là một luật tục cổ truyền đặc biệt trong hôn nhân của người Ê Đê, được cộng đồng dân tộc Ê Đê thực hiện một cách tự nguyện. Luật tục này đã được duy trì bền vững qua thời gian, quy định rằng: “Dầm sàn gẫy thì phải thay, giát sàn nát thì phải thế, chết người này phải nối bằng người khác”.

Cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên, luôn phải đương đầu với thiên tai, dịch bệnh, nên tục nối dây nhằm duy trì nòi giống, sức lao động để bảo vệ cuộc sống của gia đình, dòng họ, buôn làng.

Luật tục nối dây quy định: Trong trường hợp chồng chết, người phụ nữ có quyền đòi hỏi nhà chồng phải thế một người em trai chồng để làm chồng mình. Ngược lại, nếu người vợ chết, thì chồng người phụ nữ ấy buộc phải lấy em gái vợ (em ruột hoặc em họ của vợ) để truyền nối giống nòi. Người được chọn nối dây phải là người đang son rỗi, không vợ không chồng.

Truyền thống văn hóa của họ tộc Ê Đê ở Tây Nguyên - 3

Tục trao vòng cầu hôn của người Ê Đê.

Người Ê Đê luôn xem gia đình là một tổ ấm (hrú mđạo), nơi ông bà cha mẹ và con cái cùng chia sẻ vui buồn... Trong đó bố mẹ là nguồn sống, là nơi nương tựa của con trẻ. Việc tìm cho những đứa trẻ bất hạnh ấy một người “kể” để thay thế người qua đời nuôi dạy các cháu là xuất phát từ tình thương. Hơn thế, tục nối dây không những tìm mẹ, hoặc cha, làm chỗ dựa tinh thần cho những đứa trẻ mất cha, mẹ, tìm bạn đời cho người còn lại, mà người này còn có trách nhiệm thay người đã khuất chăm sóc con cái, gìn giữ tài sản, đất đai, duy trì gia đình vẹn nguyên như trước. Ngày nay, tục nối dây của người Ê Đê đã có nhiều thay đổi, không ép buộc thực hiện mà trên cơ sở tự nguyện của những người còn sống “nối dây” mới được diễn ra. Người được họ hàng chọn lựa để kết hôn với chị em vợ hoặc anh em rể có thể từ chối hôn nhân nếu cảm thấy không phù hợp với mình.

Việc duy trì gia đình mẫu hệ của người Ê Đê không chỉ biểu hiện ở tục nối dây mà còn thể hiện trong quan hệ giữa các chị em gái ruột và con cái của họ. Trong họ tộc của người mẹ, những người phụ nữ luôn xem những đứa con của các chị em gái ruột hoặc chị em gái họ như con đẻ. Những người phụ nữ, những người đàn ông thay thế theo luật tục luôn chăm sóc nuôi nấng, yêu thương những đứa trẻ như chính con đẻ của mình.

Tín ngưỡng, lễ hội

Trong đời sống tâm linh, người Ê Đê coi Yảng (Trời) là đấng thần linh tối cao và các sự vật, hiện tượng thiên nhiên đều có thần linh như thần mưa, thần núi, thần sông,... cho đến đồ vật từ hòn đá kê bếp đến ngôi nhà, những chiếc cồng, chiêng... đều có hồn thiêng ở bên trong.

Theo quan niệm tâm linh đó, đồng bào dân tộc Ê Đê ở nhiều nơi vẫn lưu giữ những lễ hội, phong tục, nghi lễ truyền thống mang bản sắc dân tộc mình, như: Lễ hội đón năm mới, lễ ăn cơm mới, lễ cúng bến nước, cầu mong mưa thuận gió hòa, mọi người khỏe mạnh, nhà nhà nhiều lúa, ngô, trâu, bò,... Lễ giết trâu cúng thần linh và người quá cố, lễ cưới, lễ trưởng thành, lễ cúng hòn đá bếp - vị thần đã giúp gia chủ một năm no đủ...

Ê Đê theo đạo Tin Lành thuộc dòng Tin Lành hệ Baptist được các nhà truyền giáo người Mỹ và châu Âu truyền vào từ những năm đầu thế kỷ XX. Tỉnh Đắk Lắk, địa phương tập trung đông người Ê Đê nhất cũng là nơi có tín đồ Tin Lành nhiều nhất Việt Nam. Bên cạnh đó, Công giáo được truyền bá thông qua các nhà truyền giáo Tây Ban Nha và người Pháp. Một số ít bà con Ê Đê theo Phật giáo, chủ yếu cư trú tại các vùng đô thị, là người Ê Đê kết hôn với người Việt, người Hoa.

Người Ê Đê có kho tàng văn học truyền miệng phong phú, bao gồm các thể loại: thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các Khan (trường ca, sử thi), trong đó nổi tiếng là Đam San, Xinh Nhã,...

Người Ê Đê yêu ca hát, thích tấu nhạc và có nhiều người có năng khiếu về lĩnh vực này. Nhạc cụ có cồng chiêng, trống, sáo, khến, gốc, kni, kèn đình năm, đình tuốc là các loại nhạc cụ phổ biến của người Ê Đê, được nhiều người ưa thích.

Từ sau năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng giang sơn thu về một mối, cuộc sống ở các buôn làng Ê Đê đang đổi thay nhanh chóng. Và thật đáng mừng, cuộc sống mới không làm mất đi những truyền thống tốt đẹp, những phong tục hướng về cội nguồn, hướng về tổ tiên, tình yêu thiên nhiên, gia đình, đồng tộc,... Truyền thống văn hóa của đồng bào dân tộc Ê Đê đang góp phần làm phong phú bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

H’NGƠI HLONG

Tin liên quan

Tin mới nhất

Giá vàng thế giới cắm đầu lao dốc, giảm mạnh nhất 4 năm

Giá vàng thế giới cắm đầu lao dốc, giảm mạnh nhất 4 năm

Sau chuỗi tuần tăng nóng lập đỉnh kỷ lục, giá vàng đã sụt giảm mạnh, đánh dấu mức giảm lớn nhất trong 4 năm. Nguyên nhân đến từ đồng USD mạnh lên, nhu cầu trú ẩn giảm và lo ngại về sự điều chỉnh kỹ thuật, đồng thời bạc cũng chịu áp lực tương tự.