Vấn đề cách nhìn trong truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao
Trong quan niệm của Nam Cao, vấn đề “đôi mắt”, cách nhìn bao giờ cũng gắn liền với vấn đề tấm lòng, tình cảm của người nghệ sĩ. Có những nhà văn không phải không thông minh, thậm chí còn quá thông minh, nhưng vẫn không hiểu được nhân dân, hiểu được con người, vì còn thiếu một cái gì đó ngoài trí thông minh. Đó là tấm lòng, tình cảm gắn bó sâu nặng với nhân dân, tình thương yêu đối với đồng loại.
Nhà văn Nam Cao
Trong nhật kí Ở rừng của Nam Cao, ghi ngày 3/11/1947, có đoạn: “Gần gũi với những người Mán đói rách và dốt nát, thấy họ rất biết yêu cách mạng, làm cách mạng chân thành, sốt sắng và tận tụy, chúng tôi thấy tin tưởng vô cùng. So sánh họ với mấy thằng “bố vếu” mà Khang (một họa sĩ, cùng làm báo Cứu quốc với Nam Cao) gọi là trí thức nửa mùa. Khang rất bất bình với hạng này. Chúng nó chẳng yêu một cái gì, chẳng làm gì. Chúng nó chỉ tài chửi đổng”.
Đến ngày 1/3/1948, Nam Cao viết: “Mấy ngày nghỉ tết, tôi viết một truyện ngắn cho đỡ nhớ. Truyện Tiên sư thằng Tào Tháo! Nhưng sau tôi đặt cho nó một cái tên giản dị và đứng đắn: Đôi mắt”. Những dòng nhật kí nói trên cho thấy quan điểm của Nam Cao khi viết Đôi mắt. Thiên truyện ngắn này được Nam Cao viết vào những ngày đầu xuân 1948, khi ông đang làm báo Cứu quốc Liên khu Việt Bắc và sống với đồng bào Mán ở vùng núi Bắc Kạn. Đây là một thời điểm mà vấn đề “nhận đường” đang đặt ra khá gay gắt cho giới văn nghệ sĩ, đặc biệt những nhà văn tiểu tư sản đã nổi tiếng từ trước Cách mạng.
Nếu như trong thời kì Tổng khởi nghĩa, sự phát hiện ra sức mạnh của nhân dân – một sức mạnh to lớn – làm cho nhiều nhà văn sửng sốt, bất ngờ đến mức “ngã ngửa người ra”, làm đảo lộn cả phương thức nhận thức quần chúng nhân dân của họ, thì giờ đây, hiện thực gian khổ của cuộc kháng chiến, những vấn đề mới của quần chúng bộc lộ ra trong cuộc sống đã làm cho những nhà văn tiểu tư sản này không khỏi có lúc phân vân. Được nảy sinh trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể như thế, Đôi mắt là bản tuyên ngôn về tư tưởng, lập trường kháng chiến, khẳng định cái nhìn tích cực đối với quần chúng nhân dân, đồng thời bộc lộ quan điểm nghệ thuật của những văn nghệ sĩ tự nguyện tham gia kháng chiến. Nhà văn Tô Hoài đã coi Đôi mắt là tuyên ngôn nghệ thuật của lớp nghệ sĩ như các ông khi đó.
Bìa tập truyện ngắn "Đôi mắt".
Trong thiên truyện ngắn này, Nam Cao đã thành công trong việc xây dựng hai nhà văn có “đôi mắt”, cách nhìn, thái độ và tình cảm khác nhau đối với nhân dân và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Hoàng tiêu biểu cho loại văn nghệ sĩ vẫn giữ đôi mắt cũ khi nhìn con người và cuộc sống. Dưới con mắt của Hoàng, quần chúng nhân dân chỉ là một lũ “nhố nhăng”, “vừa ngố vừa nhặng xị”, “nhiêu khê”, “thóc mách”, “toàn những người ngu độn, lỗ mãng”, “ích kỉ”, “tham lam, bần tiện cả”. Không chỉ những người nông dân, trong con mắt khinh bạc của Hoàng, những người ở phố cùng tản cư về cũng “thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời”. Chỉ nhìn thấy những mặt tiêu cực của người nông dân, chỉ tiếp xúc với thứ “cặn bã của giới thượng lưu trí thức”, Hoàng trở nên rất bi quan về con người.
Đối với cuộc kháng chiến, Hoàng cũng rất “bi”, “rất nản”, và nếu như chưa nản hẳn có lẽ chỉ vì còn “tin vào Ông Cụ”. Hoàng cho rằng “cuộc Cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãnh đạo cừ”. Điều đó cũng nhất quán trong cách nhìn của Hoàng: một khi đã nhìn quần chúng nhân dân như một đám đông ngu ngốc thì lẽ dĩ nhiên sẽ đề cao quá đáng vai trò của vĩ nhân. (Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, tâm lí sùng bái lãnh tụ Hồ Chí Minh là một nét chung của thời đại lúc bấy giờ).
Bức tranh bao quát về cả một thời đại qua con mắt của Hoàng cũng toàn những sự nhố nhăng, lố bịch và hài hước. Cái nhìn đó được bộc lộ qua lời tâm sự của Hoàng với Độ: “thế nào chúng mình cũng phải viết một cái gì để ghi lại cái thời này. Nếu khéo làm còn có thể hay bằng mấy cái Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Phụng nó còn sống đến lúc này phải biết!”.
Thông qua những suy nghĩ của nhân vật Độ, Nam Cao đã phê phán cách nhìn phiến diện đó của Hoàng: “Anh đã quen nhìn đời và nhìn đời một phía thôi. Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn” nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một con vẹt biết nói kia, anh cũng chỉ thấy cái ngố bề ngoài của nó, mà không nhìn thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản…”.
Khuynh hướng phản ánh hiện thực có chiều sâu của Nam Cao đã hướng ngòi bút của ông vào việc phân tích, cắt nghĩa, lí giải nguồn gốc, cơ sở cách nhìn con người và cuộc đời của Hoàng. Cái nhìn nói trên của Hoàng bị chi phối bởi lập trường (cơ sở, chỗ đứng về tư tưởng, chính trị) của anh. Theo cái mạch diễn biến tâm tư suy nghĩ của Độ - nhân vật người kể chuyện, cái quá khứ của Hoàng hiện ra rất cụ thể. “Anh Hoàng là một nhà văn nhưng đồng thời là một tay chợ đen rất tài tình”, sống “phong lưu” ngay cả cái năm “đói khủng khiếp”. Anh ta đố kị tài năng, “vẫn có tính tự nhiên “đá” bạn một cách đột ngột”, bị “cái giới văn nghệ sĩ Hà Nội chửi” quá nhiều.
Hồi quân đội Đồng Minh vào giải giáp quân Nhật ở nước ta, Hoàng bị người ta “khinh ghét” vì đã “dùng ngòi bút của mình để làm những việc đê tiện”. Hoàng đã “ra một tờ báo hằng ngày để chửi vung lên. Chửi hết cả mọi người rồi anh mới lôi đến một số bạn cũ của anh ra. Toàn là những người hiền lành, xưa nay chưa hề chạm đến một sợi tóc của anh. Nhưng tên họ trên những tờ báo của phong trào giải phóng quốc gia là anh ngứa mắt. Anh hằn học gọi mỉa họ là những nhà văn vô sản và cho họ là một bọn khố rách áo ôm đã đến ngày mả phát, ăn mặc và tẩm bổ hết cả phần thiên hạ”. Hoàng là một văn nghệ sĩ có tên tuổi mà quyền lợi ích kỉ của mình đã gắn bó quá chặt chẽ, sâu sắc, với chế độ cũ. Thành ra, sau Cách mạng, “anh vẫn là người cũ. Anh không chịu đổi”. Hoàng là điển hình cho loại văn nghệ sĩ không tán thành Cách mạng và kháng chiến, kiên định lập trường bất cộng tác với kháng chiến, không làm bất cứ việc gì dù là nhỏ nhặt nhất.
Khác với Hoàng, Độ tiêu biểu cho những văn nghệ sĩ xem cuộc kháng chiến là của mình và tích cực tham gia kháng chiến. Đến với cách mạng và kháng chiến, Độ đã chấp nhận từ bỏ những thói quen sinh hoạt cũ, từ bỏ những quyền lợi ích kỉ của mình, từ bỏ cả cái nghệ thuật mà trước đây anh cho là “cao siêu”. Độ cũng như nhiều văn nghệ sĩ thuộc thế hệ anh đã tự giác dùng ngòi bút của mình phục vụ sự nghiệp chung của toàn dân tộc. “Anh đã nắm cổ nghệ thuật của anh, bắt nó phục vụ cuộc chiến đấu sống chết của dân tộc”, (Nguyễn Đình Thi, Mấy vấn đề văn học, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr. 138), sẵn sàng làm một anh “tuyên truyền nhãi nhép” vô danh, miễn là có lợi cho kháng chiến. Độ vui mừng trước sự đổi đời của nhân dân từ sau Cách mạng. Hòa nhập vào đời sống kháng chiến, cùng hội cùng thuyền với nhân dân, càng ngày Độ càng cảm thông, có thiện cảm và thiện chí với họ hơn. Độ đã nhận ra “nhiều cái kì lạ”, đã nhìn thấy những mặt tích cực và tư thế mới của nhân dân lao động trong Cách mạng và trong kháng chiến.
Nam Cao đã lần lượt để cho từng nhân vật kể về các sự việc, qua đó để cho nhân vật tự bộc lộ cách nhìn, tư tưởng và tình cảm của mình. Có thể nói, mỗi một sự việc được đề cập đến đều hàm chứa sự “đối thoại”, “tranh luận” giữa hai quan điểm, hai cách nhìn khác nhau. Có cái nhìn đi của Hoàng và lại có cái nhìn lại của Độ. Và cùng với những đôi mắt khác nhau ấy là những tiếng cười, những thái độ, tình cảm cũng rất khác nhau. Có tiếng “cười gằn” của Hoàng (đồng minh với nó là tiếng “cười rú lên” của vợ Hoàng) và tiếng “cười gượng”, “cười nhạt”, “cười chẳng được tươi cho lắm” của Độ. Có thái độ “bất bình”, “gay gắt”, “tức tối”, “khinh bỉ” của Hoàng nhưng lại có thái độ bênh vực, cảm thông và trân trọng của Độ. Có cái “giọng tức tối và bất bình” của Hoàng nhưng lại có giọng “cắt nghĩa”, phân bua của Độ.
Không phải Độ không nhìn thấy những sự “dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ nhịn nhục một cách đáng thương” của người nông dân, không phải Độ chưa từng gặp những anh “răng đen, mắt toét gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh”… Song cái khác cơ bản giữa Hoàng và Độ là một bên nhìn quần chúng bằng con mắt “ráo hoảnh của phường ích kỉ”, còn một bên nhìn họ bằng con mắt của những người trong cuộc, bằng con mắt của tình thương, không thành kiến, định kiến với cái dở, cái ngố bề ngoài để khám phá, phát hiện ra cái bản chất, cái nguyên cớ tốt đẹp bên trong.
Như vậy, trong quan niệm của Nam Cao, vấn đề “đôi mắt”, cách nhìn bao giờ cũng gắn liền với vấn đề tấm lòng, tình cảm của người nghệ sĩ. Có những nhà văn không phải không thông minh, thậm chí còn quá thông minh, nhưng vẫn không hiểu được nhân dân, hiểu được con người, vì còn thiếu một cái gì đó ngoài trí thông minh. Đó là tấm lòng, tình cảm gắn bó sâu nặng với nhân dân, tình thương yêu đối với đồng loại.
Truyện ngắn Đôi mắt đánh dấu một sự thay đổi cơ bản trong cách nhìn của Nam Cao đối với quần chúng nhân dân. Nếu như trước Cách mạng, ông mới chỉ nhìn những người nông dân, hoặc như những nạn nhân đáng thương (Dì Hảo, Lão Hạc, Lang Rận,…), hoặc vừa là nạn nhân vừa là tội nhân (Chí Phèo, Nửa đêm,…) của cuộc sống cũ đầy bóng tối, thì giờ đây, ông đã nhìn họ như những con người chủ động, tích cực tạo ra thời đại mới. Nam Cao đã nhìn thấy sức mạnh to lớn của nhân dân trong cách mạng và trong kháng chiến. “Người nhà quê dẫu sao thì cũng còn là một cái bí mật đối với chúng ta. Tôi gần gũi họ rất nhiều. Tôi đã gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương. Nghe các ông nói đến “sức mạnh quần chúng”, tôi rất nghi ngờ […]. Nhưng đến hồi Tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngã ngửa người. Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng, mà làm cách mạng hăng hái lắm…”.
Qua Đôi mắt, Nam Cao đã bước đầu đặt ra quan niệm về cái đẹp, về đối tượng của nền nghệ thuật mới. Ông đã sớm nhận ra, những con người có thật ở quanh ta, những người nông dân chất phác, áo vải, đi chân đất, đang hăng hái gánh cả cuộc kháng chiến trên vai của mình, đã thực sự xuất hiện. Những con người ấy sẽ bước vào văn học, trở thành nhân vật chính của văn học nghệ thuật thời đại mới.
Tuy nhiên, ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt của Nam Cao đã không cho phép ông che đậy một sự thực khách quan khác của đời sống. Trong cái giọng điệu gắt gắt, hằn học của Hoàng, nói về nhân dân, về cách mạng, không phải không có chút xíu cảm thông, và cũng không phải là hoàn toàn vô căn cứ: “Tôi thấy có nhiều ông tự vệ hay cả Vệ quốc quân nữa táy máy nghịch súng hay lựu đạn làm chết người như bỡn. Nhiều ông cầm một khẩu súng lạ, không biết bắn thế nào. Như vậy thì hăng hái cũng vứt đi. Nhưng mà thôi! Nước mình như vậy, suốt đời không được mó đến khẩu súng thì làm gì biết bắn, họ đánh mãi thì cũng biết. Thì cứ để họ đánh Tây đi! Nhưng tai hại là người ta cứ muốn cho họ làm ủy ban nọ, ủy ban kia, thế mới chết người ta chứ! Nói ví dụ như cái thằng chủ tịch ủy ban khu phố tôi ở Hà Nội lúc chưa đánh nhau. Nó là một anh hàng cháo lòng. Bán cháo lòng thì nó biết đánh tiết canh, chứ biết làm ủy ban thế nào mà bắt nó làm ủy ban?”.
Con mắt tinh nhạy, sắc sảo của một nhà văn đã giúp Nam Cao sớm nhìn thấy một căn bệnh ngay ở cái thời kì nó mới xuất hiện. Cái hậu quả của quan niệm duy ý chí, lấy nhiệt tình thay cho tất cả, cái tai hại to lớn do sự kém cỏi về năng lực của người lãnh đạo gây nên, trong kháng chiến chưa thể hiện rõ, thì trong công cuộc xây dựng đất nước sau này, bộc lộ đầy đủ hơn bao giờ hết. Phát hiện ra một căn bệnh trầm trọng dường như mới chỉ lộ ra những triệu chứng đầu tiên, Nam Cao quả là có “con mắt tinh đời”. Cái nhìn tiên tri, dự báo ấy cũng là một phương diện của tài năng Nam Cao.
Một thành công không thể phủ nhận được của Đôi mắt là đã xây dựng được những nhân vật điển hình tư tưởng, có sức khái quát một hiện tượng, một vấn đề tư tưởng nổi bật trong đời sống tinh thần của thời đại. Cả Hoàng và Độ (đặc biệt là Hoàng) hiện lên rất sinh động, nhờ những chi tiết cá thể hóa, từ hình dáng đến cử chỉ, thói quen đến lời nói. Ngôn ngữ đối thoại được tổ chức nối tiếp nhau, rất tự nhiên, vừa hướng tới, tranh luận với người đối thoại, vừa phơi bày được tâm lí của nhân vật. Ngôn ngữ của nhân vật Hoàng đúng là ngôn ngữ của một nhà văn: vừa giàu hình tượng, vừa hóm hỉnh, đầy vẻ hài hước, châm biếm, làm cho người nghe như chị Hoàng phải “cười rú lên”, “cười nhiều quá, phát ho, chảy cả nước mắt ra”.
Đôi mắt kế thừa được bút pháp truyện ngắn trước Cách mạng của Nam Cao. Ngòi bút của ông luôn có thói quen thâm nhập vào thế giới bên trong, vào suy nghĩ, tâm trạng, cảm xúc và ấn tượng của nhân vật; nhìn cuộc đời và con người bằng chính con mắt của nhân vật. Nhà văn đã lần lượt để cho Độ và Hoàng kể về các sự kiện bằng chính ngôn ngữ, giọng điệu, cách cảm và cách nghĩ của họ. Qua lời kể, nhân vật Hoàng đã tự bộc lộ sự bất bình, tức tối và khinh bỉ của mình đối với quần chúng. Trong những trường hợp như thế, người đọc có cảm giác không phải là được nghe kể lại, mà là được chứng kiến, được thực sự nhìn thấy những sự việc đang xảy ra. Sự đan dệt, xen cài và tác động lẫn nhau giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đã tạo nên trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nam Cao tính chất phức điệu và cùng với nó là tính chất đối thoại nội tại.
Vấn đề quan điểm, cách nhìn là một vấn đề của mỗi con người, của từng thời đại. Dựng lên hai nhân vật văn nghệ sĩ trí thức với những cách nhìn khác nhau, với những cuộc đối thoại, tranh luận như vẫn còn chưa kết thúc, Nam Cao như muốn gửi gắm sự băn khoăn và nỗi niềm sâu kín của mình: phải nhìn nhận, đánh giá nhân dân và thời đại như thế nào cho thỏa đáng, cho thật đúng đắn. Đó là cái dư vị triết lí thâm trầm, sâu xa toát lên từ thiên truyện ngắn đặc sắc này.

Trong quá trình đổi mới hội nhập và phát triển giao lưu văn hóa, đất nước có nhiều sự biến đổi to lớn về diện mạo,...
Bình luận