Ý kiến góp ý với dự thảo các văn kiện trình đại hội XIV của Đảng: Về phát triển văn học nghệ thuật trên chặng đường dài
Trước hết, xin được mạo muội nói rằng, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng là sự kết tinh nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới, thể hiện quyết tâm chính trị, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, vững bước trong kỷ nguyên mới.

Nhà thơ Hải Thanh Ủy viên Đoàn Chủ tịch, Trưởng Ban Kiểm tra Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (giữa) tại Hội nghị lấy ý kiến góp ý văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng do Đảng ủy Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tổ chức
Tôi thực sự phấn khởi khi thấy các dự thảo văn kiện đã thể hiện một cách sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó tôi đặc biệt quan tâm tới văn hoá – văn học, nghệ thuật. Có thể nói cụm từ “xây dựng/ phát triển văn hoá, con người” được nhắc nhiều trong Dự thảo Báo cáo chính trị; Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam; Dự thảo Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030, phương hướng phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2026-2030; Dự thảo Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng.
Bản thân tôi được biết, “Đề cương văn hoá Việt Nam” ra đời năm 1943. Từ đó đến nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về văn hoá. Gần đây nhất, Nghị quyết TW5 (khoá VIII), Nghị quyết 23 BCT (2008), Nghị quyết TW9 (khóa XI), Hội nghị văn hoá toàn quốc 2021... được triển khai một cách sâu rộng.
Vấn đề cốt lõi là xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Mọi lĩnh vực đều liên quan đến văn hoá, nhưng văn hoá đã thực sự “soi đường cho quốc dân đi” chưa, vẫn là câu hỏi để ngỏ.
Chính các văn kiện đã thẳng thắn chỉ rõ: “Cơ chế, chính sách phát triển văn hoá còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ; đầu tư cho văn hoá hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển văn hoá”... “Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật lớn”... Đương nhiên, có rất nhiều lý do, rào cản, “điểm nghẽn” để quan điểm “văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” được thực hành triệt để.
Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới là không thể phủ nhận. Quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân là phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hoá và con người Việt Nam, lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, động lực, sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững.
Khẳng định vai trò của văn học nghệ thuật trong xây dựng xã hội, con người “Chân - Thiện - Mỹ”, Văn kiện nêu: (Dự thảo Báo cáo chính trị) “Xây dựng, phát triển văn học - nghệ thuật xứng tầm với lịch sử văn hoá dân tộc và những thành quả, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” (Tr. 35); và “Có giải pháp đột phá phát triển văn học nghệ thuật, tinh hoa văn hoá của dân tộc trong kỷ nguyên mới” (Tr. 335).
Văn hoá là lĩnh vực rộng dài. Những giải pháp mạnh mẽ để chấn hưng văn hóa, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải được thực thi, và không dễ. Vậy nên, tôi xin kiến nghị mấy vấn đề liên quan đến văn học nghệ thuật sau đây:
Thứ nhất: Tạo môi trường tự do sáng tạo và đa dạng văn học nghệ thuật. Đây là yếu tố then chốt để VHNT phát triển phong phú và có chiều sâu. Vì vậy, Văn kiện cần nhấn mạnh việc đảm bảo quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ theo đúng Hiến pháp và pháp luật; khuyến khích mọi tìm tòi, thể nghiệm mới mẻ, đa dạng về phong cách, thể loại, đề tài và phương pháp biểu hiện. Thực tế vấn đề này đã được nêu trong các nghị quyết trước đó nhưng thực tế vẫn có xu hướng “đồng phục hoá”, “hành chính hoá”, “nghiệp dư hoá”...
Thứ hai: Nâng cao nguồn lực và đãi ngộ cho văn nghệ sĩ. Sáng tạo văn học nghệ thuật là một nghề nhưng khó sống được bằng nghề. Đề cao, khuyến khích vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hóa cần có những chính sách cụ thể, thiết thực hơn.
Thứ ba: Về vấn đề phát triển công nghiệp văn hoá và văn hoá số trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, văn học nghệ thuật cần hoà nhập và đóng góp vào kinh tế, đồng thời tận dụng công nghệ số một cách chủ động là cần thiết nhưng hạ tầng vẫn khó khăn và nhiều khó khăn khác, không thể “một tấc lên giời”, nên cần thiết trước mắt là định hướng chính sách liên kết giữa văn học nghệ thuật với các ngành công nghiệp văn hoá, bảo vệ bản quyền tác giả trong môi trường số, tạo lập và phát triển thị trường văn học nghệ thuật được lành mạnh, minh bạch.
Thứ tư: Nâng cao vai trò của phê bình văn học nghệ thuật và lý luận, phê bình. Phê bình là “bà đỡ” của sáng tạo, cần được phát triển chuyên nghiệp đúng nghĩa. Có đào tạo, bồi dưỡng, khuyến khích; mở ra các diễn đàn, liên kết trong và ngoài nước. Lý luận, phê bình thực sự là tiếng nói phản biện, định hướng và đồng sáng tạo để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hoá, văn học nghệ thuật nên những nút thắt “cơ chế” cần được cởi bỏ để phát huy tiếng nói của lý luận, phê bình đúng nghĩa.
Thứ năm: Quảng bá văn học nghệ thuật Việt Nam ra thế giới. Vấn đề này được nói đến nhiều nhưng kết quả chưa được như mong muốn. Vì vậy cần có định hướng, chiến lược và chương trình quảng bá văn học nghệ thuật Việt Nam ra thế giới một cách bài bản, chuyên nghiệp và có trọng tâm, trọng điểm.
Bình luận