Thượng tướng Phùng Thế Tài - Những dấu mốc lịch sử

Trong cuốn hồi ức “Bác Hồ - Những kỉ niệm không quên”, Thượng tướng Phùng Thế Tài bộc bạch: “Đúng là không thể nào quên, vì một lẽ rất đơn giản là kể từ những ngày đầu tiên được gặp Bác, tháng 2 năm 1940 cho đến khi Bác đi xa, cả cuộc đời tôi luôn luôn gắn liền với sự thương yêu chăm sóc của Bác.

Bác đã từng bước dẫn dắt tôi, từ một đứa trẻ lang thang, thất học, tính tình ngổ ngáo, trở thành một sĩ quan cấp tướng của cách mạng, có đóng góp ít nhiều vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây thực sự là một điều kì diệu mà đôi khi tôi cứ nghĩ có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng nổi.

Những điều kì diệu này sẽ rất dễ hiểu nếu chúng ta đặt nó trong sự kì diệu Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người đem chủ nghĩa Mác - Lênin về làm đổi thay cả một dân tộc, đổi thay cuộc đời trong đó có cuộc đời tôi.

Thượng tướng Phùng Thế Tài - Những dấu mốc lịch sử - 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tư lệnh QUân chủng Phòng không - Không quân Phùng Thế Tài và Phó Chính ủy Phan Khắc Hy.

Chỉ trong vòng 5 năm trời, từ thằng Thụ nhóc con, đêm đêm với cái bụng lép kẹp nằm còng queo trên chiếc ghế đá công viên Hạ Lầu, ở Côn Minh, trở thành một trong những trung đoàn trưởng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam vào cuối năm 1946, lúc đó tôi vừa tròn 25 tuổi.

Khi giao cho tôi chức vụ trung đoàn trưởng, Bác chỉ phân vân: “Tính chú nóng và liều quá. Người làm tướng mà nóng và liều thường hỏng việc”. Nhưng Bác vẫn tin và giao nhiệm vụ cho tôi. Và tôi đã không phụ lòng tin của Bác.

Cứ như thế, Bác từng bước dạy bảo, dìu dắt tôi trưởng thành đi lên trên con đường cách mạng”.

Thượng tướng Phùng Thế Tài là một trong những tướng lĩnh tài ba, trụ cột của quân đội nhân dân Việt Nam. Sớm theo Đảng, theo Bác Hồ từ những ngày cách mạng còn trứng nước, ông luôn có mặt trên tuyến đầu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đảm đương nhiều cương vị quan trọng ở các thời khắc lịch sử và có những đóng góp nhất định. Cuộc đời ông là một tấm gương sáng của người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Từ người cận vệ đầu tiên của Bác Hồ, theo lời dạy của Bác, với ý chí, nghị lực và tài năng của mình, ông từng bước trưởng thành, trở thành Thượng tướng quân đội nhân dân Việt Nam, một vị tướng bản lĩnh, giàu cá tính, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, luôn đặt lợi ích của nhân dân, Tổ quốc lên trên hết để hoàn thành nhiệm vụ. 

Sau một khoảng thời gian làm nhiệm vụ bảo vệ Bác Hồ, đầu năm 1945, Phùng Thế Tài báo cáo xin Bác cho được đi chiến đấu trực tiếp. Bác đồng ý. Bác nhất trí cho Phùng Thế Tài làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội Giải phóng quân Thất Khê. Hôm tiễn Phùng Thế Tài đi nhận nhiệm vụ mới, Bác dặn: “Chú sẵn sàng đi chiến đấu, thế là tốt, nhưng nhớ đừng có “hữu dũng, vô mưu”.”

Đừng hữu dũng, vô mưu, lời dặn của Bác khiến Phùng Thế Tài như thấy được những điểm còn xốc nổi, nóng nảy, suy nghĩ còn chưa thấy hết được những vấn đề lớn trước mắt và lâu dài. Lời Bác chân thành, thẳng thắn và có phần sát sạt với cá nhân người cận vệ. Chính lời căn dặn này, đã theo suốt cuộc đời vị tướng họ Phùng.

Sau khi giành chính quyền tại Lạng Sơn thành công, Phùng Thế Tài được cử làm Ủy viên Quân sự Việt Minh tại Lạng Sơn kiêm Chi đội phó Chi đội Lạng Sơn. 

Những ngày đầu mới giành được chính quyền, công tác quân sự mang nhiều trọng trách mà việc hàng đầu là tham gia củng cố chính quyền nhân dân, tạo niềm tin cho nhân dân vào chính quyền Việt Minh để có những bước chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ sau này. Đó cũng là phương châm hành động của Chi đội Lạng Sơn trong những ngày xây dựng chính quyền non trẻ.

Thực dân Pháp bội ước. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Quyết liệt nhất là mặt trận Hà Nội. Những đơn vị cảm tử ra đời. Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh là ý chí sắt đá của quân và dân Hà Nội. 

Đầu năm 1947, Phùng Thế Tài được cấp trên điều từ Lạng Sơn về mặt trận Hà Nội làm Ủy viên Quân sự trong Ủy ban Hành chính Kháng chiến Hà Nội kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 37. Điều này cho thấy cấp trên luôn tin tưởng vào năng lực chỉ huy đa dạng của Phùng Thế Tài. 

Trên cương vị mới, Phùng Thế Tài chỉ huy bộ đội tập kích vào thị xã Hà Đông khiến địch vô cùng khiếp sợ. Giặc Pháp cho rằng ta không còn bộ đội chủ lực và cũng không đủ sức tập kích vào thị xã. Trận tập kích gây tiếng vang lớn đã tạo cho bộ đội ta có kinh nghiệm tập kích địch trong thành phố và cho Trung đoàn trưởng Phùng Thế Tài sự quả đoán, quyết thắng, đánh địch trong lòng địch, đánh địch để dân tin, đánh địch để trưởng thành.

Năm 1950, Phùng Thế Tài được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội. Tiếp đó nhận mệnh lệnh từ cấp trên chỉ huy bộ đội tập kích sân bay Bạch Mai. Ta đốt phá, tiêu hủy 25 máy bay, các kho tàng, 60 vạn lít xăng dầu, 32 tấn vũ khí trang bị của thực dân Pháp làm chấn động cả Thủ đô Pa-ri. Từ trận thắng này đã nâng cao khí thế bộ đội ta, gây hoang mang cho địch ngay trong sào huyệt của chúng. Trận thắng thể hiện tài chỉ huy táo bạo, quả cảm của Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội Phùng Thế Tài.

Phùng Thế Tài tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ trên cương vị Tham mưu trưởng Đại đoàn 320.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Niềm vui vô bờ bến của nhân dân, của người chiến sĩ trong đó có Phùng Thế Tài.

Thượng tướng Phùng Thế Tài - Những dấu mốc lịch sử - 2

Thượng tướng Phùng Thế Tài thông qua phương án tác chiến của bộ đội Không quân.

Ngày 10 tháng 10 năm 1954, Đại đoàn 320 cùng các Đại đoàn tiến vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Đại đoàn 320 tiến vào từ cửa ô Đông Mác và cửa ô Cầu Dền. Năm cửa ô đón chờ đoàn quân tiến về. Những trận đánh tập kích trong đêm thị xã Hà Đông, sân bay Bạch Mai khi xưa vụt trở về. Hôm nay đây, quân ta đi giữa ban ngày, trong biển cờ hoa tung bay, trong sóng người rạng rỡ nói cười. Người chiến sĩ vẻ vang dưới cờ quyết thắng.

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ tổng Tư lệnh, Đại đoàn pháo binh 349 được thành lập. Phùng Thế Tài được bổ nhiệm cương vị Đại đoàn trưởng. 

Năm 1958, Phùng Thế Tài được phong quân hàm Thượng tá. Ông đảm đương nhiều cương vị quan trọng của bộ đội Pháo binh: Từ tháng 11 năm 1961 đến tháng 11 năm 1962, Phùng Thế Tài giữ chức Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Pháo binh kiêm Tham mưu trưởng Binh chủng Pháo binh. 

Nhận rõ tình hình diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh và bản chất hiếu chiến của Mỹ, Bác Hồ chỉ thị thành lập Binh chủng Phòng không. Tháng 12 tháng 1962, Phùng Thế Tài được bổ nhiệm là Tư lệnh Binh chủng Phòng không. Binh chủng Phòng không được thành lập đã cho thấy sự nhìn xa trông rộng của Đảng ta, Quân đội ta trong việc quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Hai chữ “Phòng không” đã luôn vang lên trong tâm trí Tư lệnh Phùng Thế Tài. Quân đội ta phải đánh giặc và phải thắng giặc ở trên không. Đó là mệnh lệnh mà Đảng, Bác Hồ giao cho bộ đội Phòng không.

Nhận thức rõ Quân đội ta phải lớn mạnh về mọi mặt để đánh và thắng Mỹ, Bác Hồ chỉ thị thành lập Quân chủng Phòng không - Không quân trên cơ sở hợp nhất Binh chủng Phòng không và Cục Không quân. Năm 1963, Quân chủng Phòng không - Không quân được thành lập, Phùng Thế Tài được cử giữ chức Tư lệnh đầu tiên của Quân chủng.

Đầu năm 1968, Bác Hồ gọi Phùng Thế Tài, lúc đó trên cương vị Phó tổng Tham mưu trưởng, đồng chí Đặng Tính - Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân lên hỏi tình hình. Lúc này Bác không được khỏe. Ngay phút đầu tiên Người đã hỏi về B-52. Nét mặt Bác trở nên đăm chiêu: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B-52 ra đánh Hà Nội rồi có thua mới chịu thua. Phải dự kiến tình huống này càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị… Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.

Chiều ngày 18 tháng 12 năm 1972, tin từ Cục 2 báo cáo Bộ tổng Tham mưu Mỹ sẽ tập kích B-52 vào Hà Nội vào 18 giờ tối. Phó tổng Tham mưu trưởng Phùng Thế Tài điện từ hầm chỉ huy tác chiến của Bộ tổng Tham mưu hỏi lại: “B-52 đến đâu rồi? Phải nắm cho thật chắc. Nó bay theo hướng nào phải báo cáo ngay”. Đồng chí Mạc Lâm, trực ban Cục 2 trả lời: “Vâng thưa anh, chúng tôi vẫn đang bám sát”. Phùng Thế Tài nói vui: “Tối nay, bộ đội ta bắn rơi B-52 thì Bộ sẽ thưởng Cục 2 một tấn lương khô và một con bò mộng”. Đồng chí Anh Lân, cán bộ Cục 2 vui mừng nói với anh em lời hứa của thủ trưởng Bộ tổng Tham mưu. Mới thấy rằng, cả những khi căng thẳng và quyết liệt nhất trong trận đấu trí đấu sức với giặc Mỹ, cán bộ chiến sĩ ta vẫn hết sức lạc quan.

Trinh sát Cục 2 bám sát B-52 từng phút và báo cáo với Bộ tổng Tham mưu: “Có tín hiệu đặc biệt, B-52 gần đến đất liền”. Cục tác chiến thông báo: “Đã xuất hiện trên màn ra đa B-52”. Từng hồi còi báo động vang lên liên tục trong thành phố Hà Nội. Tại hầm chỉ huy tác chiến Bộ tổng Tham mưu, các thông báo được truyền đi liên tục xuống các đơn vị Phòng không - Không quân. Bộ đội ta đã sẵn sàng cho trận đánh lớn. 19 giờ 15 phút, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Phó tổng Tham mưu trưởng Phùng Thế Tài, Cục trưởng Cục tác chiến Vũ Lăng có mặt tại Sở chỉ huy “Tổng hành dinh” cùng cán bộ chiến sĩ trong kíp trực bước vào trận đánh lớn với không quân Mỹ.

Cả thành phố Hà Nội vào trận. Các trận địa phòng không đều bắt được mục tiêu B-52. Tiếng bom ầm ầm dội đất bốn phía. Tiếng đạn pháo phòng không động trời, tiếng lao vun vút của tên lửa ta xé màn đêm đánh B-52 trên bầu trời Hà Nội. Phó tổng Tham mưu trưởng Phùng Thế Tài trực tiếp cầm máy ra mệnh lệnh cho Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân và các đơn vị đang đánh B-52. Không quân ta cất cánh. Mọi căm hờn đều trút lên đầu ngọn súng. Trên đài quan sát đặt trên đỉnh cột cờ báo về; Trực ban Quân chủng Phòng không - Không quân thông báo gấp gáp: Một B-52 bắn rơi ở Đông Anh, lúc đó là 20 giờ 30 phút ngày 18 tháng 12 năm 1972.

Trận đánh B-52 đêm ngày 18 rạng ngày 19 tháng 12 năm 1972 kết thúc. Địch sử dụng 400 lần chiếc máy bay chiến thuật và 90 lần B-52 đánh hơn 100 điểm khu dân cư, chúng ném xuống khoảng trên 6.000 quả bom làm chết 300 người. Ta bắn rơi 3 máy bay B-52, 5 máy bay phản lực, bắt sống 7 phi công Mỹ. 

Rạng sáng ngày 19, Phùng Thế Tài lên máy bay trực thăng cùng đoàn kiểm tra đến thẳng cánh đồng Chuông thuộc xã Phù Lỗ huyện Đông Anh bên xác chiếc máy bay B-52 nằm chềnh ềnh. Xác siêu pháo đài bay B-52 - thứ vũ khí Mỹ vẫn khoe khoang là siêu đẳng nằm tả tơi trên một đám ruộng. Ông cùng đoàn công tác cho cưa một đoạn xác B-52 rồi lập tức trở về Tổng hành dinh tiếp tục cho trận đánh lớn.

Đêm 20 rạng ngày 21 - 12 bộ đội tên lửa phòng không bảo vệ Hà Nội đã thực hiện trận đánh xuất sắc, chỉ 35 quả đạn bắn rơi 7 chiếc B- 52, có 5 chiếc rơi tại chỗ. Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp gọi điện thoại xuống các sư đoàn biểu dương bộ đội Phòng không Hà Nội đánh tốt, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng, của nhân dân. Đại tướng nói: “Cả nước đang hướng về Hà Nội. Toàn thế giới đang hướng về Hà Nội. Từng giờ, từng phút, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương theo dõi chặt chẽ cuộc chiến đấu của Hà Nội. Vận mệnh của Tổ quốc đang nằm trong tay các chiến sĩ phòng không bảo vệ Hà Nội”.

Bộ đội Phòng không - Không quân trong 12 ngày đêm đã chiến đấu ngoan cường, mưu trí, dũng cảm, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ khiến nước Mỹ hoảng loạn. 7 giờ sáng ngày 30 tháng 12 năm 1972, Ních-xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra Bắc và ngồi vào bàn đàm phán tại Pa-ri chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Trong 12 ngày đêm chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B- 52, 5 máy bay F 111 và 42 máy bay chiến thuật khác.

Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không", đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt trong suốt 8 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đây là cuộc đọ sức quyết liệt nhất từ trước tới nay. Nghệ thuật tác chiến phòng không hiệp đồng chiến đấu, quân binh chủng của bộ đội ta đã chứng tỏ sức mạnh tổng hợp của lực lượng phòng không ba thứ quân mà nòng cốt là bộ đội Phòng không - Không quân.

Đúng như Bác Hồ đã tiên đoán, đế quốc Mỹ đã sử dụng máy bay B-52 và đã thất bại thảm hại trên bầu trời Hà Nội. Trong chiến thắng lịch sử, Người cận vệ của Bác Hồ đã góp một phần công sức. Phùng Thế Tài luôn tự nhủ: Giá như có Bác Hồ. Giá như Bác còn sống để mừng vui chiến thắng.

Gia đình Thượng tướng Phùng Thế Tài trong chiến tranh, hòa bình luôn là một gia đình mẫu mực. Bà Bùi Thị Yến, người vợ tấm cám của vị tướng cũng vừa theo ông về thế giới của người hiền. Có thể nói, Phùng Thế Tài được như ngày nay người vợ hiền của ông đóng góp nhiều công sức lắm. Bà cũng như ông, chưa bao giờ đòi hỏi một cái gì về vật chất cho mình, cho gia đình, cho con cái. Ông bà mang tố chất của người hiền cũng là chịu sự ảnh hưởng của một nhân cách vĩ đại - Hồ Chí Minh từ những ngày Phùng Thế Tài còn là cận vệ cho Người.

 Ảnh hưởng của người cha, vị tướng Phùng Thế Tài với bước đường trưởng thành của các con cũng giản dị tự nhiên như chính cuộc đời ông. Ông bà sinh được năm người con: Phùng Thanh Đà, Phùng Thế Quảng, Phùng Thanh Ngọc, Phùng Thanh Lý, Phùng Thế Tám. Các con ông đều đã trưởng thành. Noi gương cha mẹ ai cũng chịu thương chịu khó lam làm, học hành, đặc biệt là tấm lòng luôn rộng mở với mọi người và chưa bao giờ dựa dẫm vào những thứ không phải của mình.

Âu cũng là nét gia phong của tổ tông gia đình ông vậy.

Từ một cậu thiếu niên khi nước nhà chưa giành được độc lập phải lưu lạc mưu sinh nơi đất khách quê người đến với cách mạng, được là cận vệ đầu tiên của Bác Hồ rồi chuyển sang đảm đương các chỉ huy quân sự. Phùng Thế Tài trưởng thành theo sự trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Có thể nói, ít tướng lĩnh nào của Việt Nam lại gắn bó mật thiết với Bác Hồ như Thượng tướng Phùng Thế Tài. Ông gắn bó với Bác từ những ngày còn bên Trung Quốc đến khi về Pác Bó trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam, được Bác dạy bảo mọi điều trong cuộc sống và công tác. Khi Bác mất, ông lại là một trong những người chỉ đạo công việc bảo quản thi hài Bác. Chính điều này cũng là một sự kỳ diệu đối với ông, đối với công cuộc cách mạng mà ông cùng các đồng chí đồng đội đã phải đánh đổi rất nhiều máu xương để có được thành quả như ước mong của Bác Hồ.

Thượng tướng Phùng Thế Tài - Những dấu mốc lịch sử - 3

 Cuốn sách về Thượng tướng Phùng Thế Tài.

Hôm nay, khi đất nước đã sang trang sử mới, Người cận vệ của Bác Hồ cũng đã về với thế giới của người hiền. Bác Hồ kính yêu của chúng ta cũng đã đi xa nhưng Bác còn để lại bao lời dạy thiết thực. Bác từng nói: “Ngày trước, ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển, bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải giữ gìn lấy nó”. Ngẫm lời Bác dạy, suy nghĩ những bước trưởng thành của các học trò của Bác trong đó có Thượng tướng Phùng Thế Tài, chúng ta càng thấy rõ một điều, trọng trách bảo vệ vững chắc vùng biển, vùng trời Việt Nam trong bối cảnh quốc tế và khu vực đầy biến động, nhiều thách thức là một vấn đề lớn cần sự tâm huyết, tài chí và trên hết là sự đoàn kết thống nhất để quân đội ta mãi mãi là tường đồng vách sắt bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân.

Phùng Văn Khai

Tin liên quan

Tin mới nhất