Vị tướng làm thơ, dồn hết tâm trí trong hoạt động dòng họ
Âu Dương Tu, một trong “Đường Tống bát đại gia” nổi tiếng của văn chương thời xưa ở Trung Quốc từng viết trong “Mai Thánh Du thi tập tự”: “Thi cùng nhi hậu công” (Thơ có khốn cùng sau đó mới hay). Trong “Lời thưa” sách “Tập làm thơ Đường” của Trung tướng Phùng Khắc Đăng, ông viết khi rơi vào một trong những tình cảnh khó khăn với tư cách một người lính: “Sau mỗi trận đánh trở về, người còn người mất, không khí đơn vị như chùng xuống, lúc ấy tôi lại tìm đến những chuyện làm thơ, bình thơ. Những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Chiêu Hổ là những bài được cày xới nhiều nhất. Đặc biệt có hai bài hầu như người lính nào cũng nhớ, đó là bài “Thơ Thần” của Lý Thường Kiệt và “Lương Châu Từ” của Vương Hàn, tác giả người Trung Hoa. Có lẽ vì những bài thơ ấy là đan xen giữa bi và hùng, nó mang theo những cảm xúc của tôi cũng như đồng đội qua năm tháng chiến tranh. Cảm xúc đó có lúc trầm, lúc mãnh liệt cho đến bây giờ vẫn ngự trị trong tôi”.
Thời chống Mỹ, Phùng Khắc Đăng đã dầm mình trong mưa bom lửa đạn ở chiến trường Khu 5 (B5). Ông từng làm Chính trị viên tiểu đoàn, Phó Chính ủy Trung đoàn, Trưởng Ban Tuyên huấn Sư đoàn 2, Quân khu 5, trực tiếp tham gia chỉ huy chiến đấu, giải phóng thị xã Tam Kỳ thành phố Đà Nẵng, công phá phi trường Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, kho xăng Liên Chiểu… rồi tham gia chiến đấu ở biên giới Tây Nam. Sau ngày hòa bình, vào các dịp mùa thu tháng bảy, ông thường xuyên trở lại chiến trường thắp hương cho đồng đội nên càng thấm thía. Trong “Ký ức tháng 7”, ông cho biết: Sư đoàn 2 bộ binh thuộc Quân khu 5 theo số liệu trong Nhà truyền thống của Sư đoàn đã có hơn năm vạn người hy sinh. Nghĩa trang Đức Cơ có 1.700 ngôi mộ liệt sĩ, chỉ có 100 ngôi mộ có tên. Đúng là “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Càng hy sinh xương máu, càng thắp sáng trí tuệ, thấm thía cái “kỷ nhân hồi” ấy, Phùng Khắc Đăng không phải giáo sư văn học chuyên nghiệp, nhưng thực tế chiến trường đã làm đầu óc ông thêm thông thái, đã hiểu câu thơ Đường, càng biết thêm danh ngôn của Âu Dương Tu “Thi cùng nhi hậu công”.
Câu nói của Âu Dương Tu cũng được vận dụng để thành công trong việc học thơ Đường, phải cần mẫn vượt khó, vượt chính bản thân mình của Phùng Khắc Đăng. Trong “Lời thưa” ông kể: “Khi rời quân ngũ về làm Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, khi gia đình có biến cố lớn xảy ra làm tôi nhiều đêm không ngủ, tôi lại tìm đến thơ Đường luật. Rồi lao vào tìm kiếm quy cách của nó và giật mình thấy ngợp và lạ lắm, nhiều lúc khó quá đã nản, định buông xuôi. Biết tôi đang mò mẫm, đánh vật với thể loại này, một bạn học cũ của tôi thời phổ thông là một nhà văn khuyên tôi không nên đụng đến thể loại Đường thi, nó vừa khó, đôi khi như lao vào ngõ cụt. Nếu may mắn được một bài cũng ít người tìm đọc, các báo ít dùng. Một vị tiến sĩ Hán Nôm có thời tâm huyết với thể loại này cũng nói với tôi: “Ông đừng dại húc đầu vào nó”. Vậy là cái tính tò mò thích khám phá trong tôi lại thôi thúc tôi lao vào. Tôi nghĩ mình sẽ tự học, tìm hiểu bạn bè, con đường đó chắc là nhanh nhất”.

Trung tướng Phùng Khắc Đăng (quân phục bên phải) trao tặng tranh Phùng Khắc Khoan tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam năm 2017.
Không phải ngẫu nhiên mà ở buổi đan xen giữa hai thế kỷ ấy có nhiều câu lạc bộ thơ, nhiều chiếu thơ truyền thống (trong đó có thơ Đường ra đời), hoạt động mạnh mẽ khắp nơi. Từ Nhân dân mà ra, trưởng thành trong quân đội, sống giữa hai thế kỷ đặc biệt ấy, làm sao Phùng Khắc Đăng không chịu ảnh hưởng, không đi vào học tập, làm thơ luật Đường và làm các thể thơ truyền thống đang phổ biến trong nhân dân càng khó ông càng dồn tâm huyết vào đó. Là một tướng cầm quân, từng trực tiếp chiến đấu, ở hoàn cảnh nêu trên thì hẳn đề tài chủ chốt trong thơ ca của Phùng Khắc Đăng là đề tài chiến trận. Bằng trực tiếp tả hay bằng “ký ức”, ông đã để lại cho người đọc những bài thơ xúc động:
“Hai lần quốc sử ghi danh tiếng
Một thuở hùng anh xứng bảng vàng
Cuộc chiến qua rồi ai còn nhớ
Bao người đã khuất nặng khăn tang
Vào Nhà lưu niệm thắp tâm nhang
Nhắc các anh xưa lệ ứa tràn
Mấy vạn con người không trở lại
Xây nền đất nước dựng vinh quang”
Có lúc ông đi vào cụ thể: ông nhớ tha thiết Mai, người con gái Đại Lộc xinh đẹp là lính của đơn vị mình đã hy sinh; nhớ Thảo, liên lạc viên người Đan Phượng đồng hương của mình đã xả thân vì Tổ quốc mà viết được những vần thơ xúc động người đọc.
Đi vào vùng đất chiến trận xưa trong tháng Vu lan báo hiếu, bên cạnh thơ, Phùng Khắc Đăng còn viết thêm những dòng hồi ức thảo thơm, chí tình chí nghĩa xen vào làm người đọc càng thấy rõ nỗi đau trong chiến tranh này là nỗi đau không gì có thể đắp bù, so sánh: “Bố tôi khi tiễn tôi đi có nói: “Con đi ba năm về thì bố con còn được gặp nhau. Ai ngờ do chiến tranh, tôi đã đi một mạch từ 20/10/1965 đến tháng 9/1976 tức là sau 11 năm mới được về. Không chờ được con bố tôi đã ra đi ngày 13/10/1974. Là người được trực tiếp dịch những vần thơ “Hưng quốc văn chương bát cô thần” của thân sinh Trung tướng, tôi càng thấy cái thần diệu của tình người, cảm thông cho nỗi đau của người con chí hiếu.
Trải qua chiến trận, vị tướng ấy lại có những vần thơ nồng rượu dưới trăng, nâng ly dốc hũ mang tầm bể rộng sông dài hoành tráng, làm hình tượng thơ càng phóng khoáng lãng mạn:
Ly tràn bể rộng còn đang tỉnh
Hũ cạn sông dài vẫn chửa say
Làm tôi lại nghĩ tới một Đặng Dung hoành tráng mài gươm dưới trăng, nâng mình lên tầm vũ trụ:
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Hay nghĩ tới một Tản Đà, một Lý Bạch dốc cả bầu tâm huyết và say rượu, say trăng. Hẳn Phùng Khắc Đăng đang vươn lên với những vần thơ hoành tráng, phóng khoáng để theo bước tiền nhân.

Trung tướng Phùng Khắc Đăng (thứ tư từ trái sang) tại Văn Miếu Quốc Tử Giám năm 2020.
Thơ Phùng Khắc Đăng rất phong phú về đề tài. Ông đã viết về danh nhân, danh thần, thầy giáo, bè bạn, gia đình, bản thân, tôn giáo, dịch bệnh, chất độc màu da cam, lại làm cả thơ vui, thơ về đất nước, quê hương, về quốc tế… muôn màu muôn vẻ. Đặc biệt, thơ về đất nước cho thấy ông là người có tầm mắt nhìn xa, có bước chân muôn dặm, từng trải khắp mọi nơi, gần nhất là Phùng Xá, chùa Thầy, rồi tới Thiên Sơn Suối Ngà, Trại Láng, Hà Nội, Hồ Tây, tới Sầm Sơn, Quảng Đà, Hải Phòng, Vũng Tàu… rồi tới Campuchia, tới nước Nga, nơi nào cũng thành thơ. Cho đến cuối cùng ở Tây Hồ Hà Nội, ở Thạch Thất mà tráng khí tứ phương vẫn hằng hăm hở, nói như Trương Hán Siêu trong Bạch Đằng giang phú, cho thấy tầm mắt, tầm thơ của ông rất rộng. Còn thơ về quê hương, Phùng Khắc Đăng cho thấy muốn yêu nước trước tiên phải yêu quê hương, yêu những cái quen thuộc đã gắn với mình và gia đình mình như cây đa, bến nước, con người, như cái tên gọi gốc An Hoa của quê mình. Tình yêu miền quê đã trở nên tình yêu Tổ quốc.
Cái diễm phúc của Phùng Khắc Đăng là ông đã sinh ra ở một miền quê đặc biệt mà không phải nhà thơ nào cũng dễ có: An Hoa trang (tên cổ làng Phùng Xá) là vùng sơn cao thủy tụ giữa hai dòng chảy: sông Đáy ở phía Đông, sông Tích ở phía Tây, giữa là vùng đồi gò với 12 ngọn núi của dãy Sài Sơn - Hoàng Xá. Địa linh tuyệt vời đó đã sinh ra anh kiệt: Trạng văn Phùng Khắc Khoan, Trạng võ Phùng Thanh Hòa, Đại tư mã Nguyễn Cảnh Câu… đã khơi dậy niềm tự hào, niềm yêu mến, đã thành thi tứ cho người trong đó có Phùng Khắc Đăng. Vậy thì không viết sao được? Cái đặc biệt với ông là ngòi bút phong phú mang nhiều sinh sắc, vừa khảo cứu, vừa làm thơ: Phùng Khắc Đăng đã dồn tâm huyết viết bài Làng Bùng - nơi viết tiếp mạch nguồn hiếu học. Đây là một bài nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ nhất về quê hương ông, đáng để các nhà khoa học và thế hệ trẻ sau này học tập, truyền bá. Đó cũng là cơ sở “nói có sách mách có chứng”, là nền móng hiện thực để ông cảm hứng viết ra những vần thơ sáng giá về quê hương như: Làng tôi, Yêu quê, Quê hương… vừa là tiếng vang của khối óc, vừa là tiếng vọng của trái tim. Phùng Khắc Đăng còn có những bài thơ gắn bó sâu sắc giữa con người với thiên nhiên, gợi hình gợi cảm khá hấp dẫn, mang màu sắc Xuân Hương như: Vịnh cây chuối lạ, Tắm trăng… cho thấy vị tướng cẩn trọng, nghiêm túc cũng là người minh trí, tinh tế, có tầm nhìn linh hoạt với tạo vật.
Thơ văn có đẹp thì trước tiên, con người ấy, tác giả của nó phải đẹp. Cái đẹp của Phùng Khắc Đăng thời chiến là ở chiến trận, còn ở thời bình cái đẹp nổi bật nhất của ông là ở hoạt động dòng họ với những ảnh hưởng, sức lan tỏa của nó. Thơ ca của ông gắn bó với cả hai cái đẹp đó
Cũng như tình hình thơ Đường luật và các thể thơ ca truyền thống, vào những năm cuối thế kỷ trước, đầu thế kỷ này, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam có chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, trở về cội nguồn dân tộc thì vấn đề dòng họ và văn hóa dòng họ nổi bật lên. Trong các cuộc chiến tranh trước đây: “Tất cả cho tiền tuyến”, những vấn đề đó phải gác lại, không có điều kiện đi sâu, thì từ thời hòa bình về sau, càng ngày càng có nhiều người “vấn tổ tìm tông”, tìm lại cội nguồn dòng họ mình. “Câu lạc bộ UNESCO thông tin các dòng họ” do cụ Nguyễn Song Tùng làm chủ nhiệm đã ra đời, đã tổ chức được nhiều cuộc Hội thảo khoa học về các dòng họ Việt Nam mang tầm quốc gia. Sau đó, có nhiều dòng họ đã cho ra đời các Ban Liên lạc hay Hội đồng dòng họ. Ở nước ngoài, thì các hậu duệ của Lý Long Tường ở Hàn Quốc về nước tìm họ, trao đổi… Ban Liên lạc dòng họ Phùng ra đời trong hoàn cảnh hăng say, tấp nập, hào hứng ấy. Ngay từ buổi đầu ấy, điều tiên quyết để đi đến thành công của họ Phùng là phải tìm được người đứng đầu xứng đáng. Như có sự sắp xếp của tổ tông, thánh thần, một số yếu nhân của dòng họ này đã tự tìm đến với nhau, nhanh chóng tìm ra người cầm lái xứng đáng. Người đó không ai khác là Trung tướng Phùng Khắc Đăng. Người cầm lái dầy dạn trong thời chiến đã thành người chèo lái vững vàng cho con thuyền dòng họ trong thời bình.
Về phẩm chất của người chèo lái đó, tiến sĩ Phùng Thảo, Phó Chủ tịch dòng họ Phùng đã nhận xét: “Làm việc lâu năm với anh Đăng, tôi cảm nhận sâu sắc tình cảm của anh với họ Phùng và với cá nhân tôi”. Nhà văn Phùng Văn Khai, thường trực họ Phùng nhận xét: “Là người đi tiên phong, Trung tướng Phùng Khắc Đăng luôn luôn gạt bỏ những riêng tư bất đồng do hiểu biết còn hạn chế, cả những khó khăn mọi mặt để đoàn kết nhau lại, thực hiện những việc có ích trước liệt tổ liệt tông. Từ các ngày giỗ chạp đến những việc lớn như xây dựng và đề xuất để các cấp có thẩm quyền công nhận di tích lịch sử văn hóa, đều được ông xem xét kỹ. Làm việc gì ông cũng hướng tới bình an cho dòng họ”. Phẩm chất con người chèo lái đó còn nổi bật ở chỗ biết dùng người. Tất cả những người trong Ban lãnh đạo họ Phùng đều là những người có năng lực, được ông xem xét kỹ, dùng đúng tài.

Bộ sách Phùng Khắc Khoan do Trung tướng Phùng Khắc Đăng chủ biên.
Phương hướng đúng đắn ấy, đã dẫn đến thành công: Vào một ngày đẹp trời năm 2009, tại khu du lịch Thiên Sơn Suối Ngà (Thị xã Sơn Tây - Hà Nội), Ban Liên lạc dòng họ Phùng Việt Nam lâm thời do Phùng Khắc Đăng làm Trưởng ban đã ra đời, tiến tới thiết lập các đầu mối dòng họ ở ba miền đất nước. Đến năm 2011, Phùng Khắc Đăng và các vị lãnh đạo dòng họ đã thấy mọi việc làm của Ban Liên lạc lâm thời đã được các chi tộc họ Phùng ở các địa phương ghi nhận, tín nhiệm.
Là người thông suốt học thuyết Mác - Lênin và nắm vững mọi chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, nhưng cũng là người hết sức mềm dẻo, linh hoạt, Phùng Khắc Đăng càng thấy rõ trong văn hóa dòng họ không thể không có văn hóa tâm linh. Và đạo thờ gia tiên gắn với dòng họ là một đặc thù trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Cho nên, song song với việc thành lập Ban Liên lạc, rồi Hội đồng họ Phùng Việt Nam, gắn với hai kỳ Đại hội được tổ chức rất long trọng, khoa học để thành công rực rỡ, là các lễ dâng hương, tưởng niệm tại các nhà thờ, đền thờ các doanh nhân họ Phùng, gắn với các sinh hoạt văn hóa khác đã được Trung tướng Phùng Khắc Đăng chỉ đạo đôn đốc chặt chẽ.
Về các sinh hoạt văn hóa tâm linh: Dòng họ Phùng đã tiến hành đúc thành công tượng đồng Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng tại đền Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây và tượng đồng Phùng Khắc Khoan tại đền thờ ở Làng Bùng, xã Phùng Xá; làm xong hai bộ rồng đá và hai đại tự đặt tại hai đền thờ Phùng Hưng và Ngô Quyền ở Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, làm xong ba bức chân dung Phùng Khắc Khoan chất liệu sơn mài tặng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, tặng đền thờ cụ Trạng và tặng chi tộc họ Phùng làng Hoành Nhị, thị trấn Ngô Đồng, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Làm những việc này rất trang trọng, linh thiêng, được tiến hành nhanh chóng, không sai sót. Dư luận cho rằng: Trung tướng Phùng Khắc Đăng rất có duyên với sinh hoạt văn hóa linh diệu đó, hẳn được tiền nhân phù hộ. Về việc Hội thảo khoa học: Ban lãnh đạo dòng họ Phùng đã tổ chức liên kết dòng họ Phùng cả nước, phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử và các cơ quan liên đới khác ở trung ương và địa phương để tổ chức các Hội thảo khoa học, tiêu biểu như: Họ Phùng trong sự nghiệp đấu tranh dành độc lập dân tộc, xây dựng bảo vệ đất nước tại Văn Miếu Quốc Tử giám Hà Nội năm 2011; Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan - cuộc đời và sự nghiệp nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của cụ tại Ủy ban nhân dân huyện Thạch Thất năm 2013; Nhà trí thức yêu nước Phùng Văn Cung với cách mạng miền Nam tại tỉnh Vĩnh Long năm 2013; Phùng Tá Chu: thân thế, cuộc đời và sự nghiệp tổ chức tại đền Cao, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội năm 2016...
Gắn với các cuộc hội thảo trên, ban lãnh đạo họ Phùng đã tổ chức hàng chục cuộc điền dã, khảo sát, tìm tòi tư liệu tại nhiều tỉnh trong nước, tổ chức làm phim truyền hình tài liệu họ Phùng Việt Nam và làm phim truyền hình hai danh nhân họ Phùng trên đất Thăng Long, tổ chức gặp gỡ các trí thức có tâm huyết với họ Phùng, tổ chức giao lưu các chi tộc họ Phùng giữa các địa phương, tổ chức viết hàng trăm bài báo về họ Phùng và các con người họ Phùng. Tất cả, làm cơ sở cho việc họ Phùng xuất bản hai mươi đầu sách để đời, sáng giá như: Họ Phùng Việt Nam tập 1,2,3,4,5; Phùng Khắc Khoan hợp tuyển thơ văn; Phùng Khắc Khoan thân thế, cuộc đời và sự nghiệp; Phùng Tá Chu thân thế, cuộc đời và sự nghiệp; các cuốn sách về Phùng Hưng, Phùng Văn Cung, Phùng Thế Tài…

Tiến sĩ Đinh Công Vỹ đọc Chúc văn tại đền thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng - Đường Lâm- Sơn Tây năm 2019.
Tất cả những việc trên đều gắn với tập thể ban lãnh đạo họ Phùng; trong đó nổi bật người đứng đầu là Trung tướng Phùng Khắc Đăng, nhân vật chủ chốt được dòng họ Phùng giao cho trọng trách chỉ đạo. Cùng với Phó Chủ tịch thường trực Phùng Thảo, nhà văn Phùng Văn Khai và các người lãnh đạo khác trong họ Phùng, ông chính là người quan trọng nhất hoạch định, tổ chức các nội dung nghiên cứu, tiến hành Hội thảo và biên soạn, phát hành các bộ sách hết sức công phu, gây tiếng vang trong giới học thuật và trong nhân dân.
Điều kỳ lạ là chỉ trong vòng hơn mười năm, tập thể họ Phùng cùng với Trung tướng Phùng Khắc Đăng đã cho ra đời hai chục đầu sách dầy dặn, đẹp đẽ, nghiên cứu về họ mình, một con số rất đáng tự hào nếu so sánh với một cơ quan văn hóa chuyên nghiệp có nhiều giáo sư, tiến sĩ chính tông. Trước những cuốn sách đó, các sự kiện, các nhân vật họ Phùng trong lịch sử có nhiều điều còn bị khuất lấp. Từ những cuốn sách đó về sau, nhiều điều khuất lấp đã được sáng tỏ. Điều kỳ lạ nữa là, cũng chỉ trong khoảng thời gian ngắn ấy thôi, trong Ban lãnh đạo họ Phùng đã có những người cho ra sách, có những cuốn sách sáng giá như sách khảo cứu toàn diện về họ Phùng. Trung tướng Phùng Khắc Đăng, một nhà lãnh đạo dòng họ biết dùng người tài đức, biết động viên, đoàn kết kịp thời, khuyến khích các vị cùng cống hiến trong Ban lãnh đạo họ Phùng.
Trung tướng Phùng Khắc Đăng có ba đặc thù hấp dẫn, đáng làm gương: hăng say chiến đấu; tổ chức chỉ đạo dòng họ xuất sắc. Gắn với hai đặc thù đó là làm thơ đặc sắc. Tác giả bài viết này, là người từng tham gia vào Ban khoa học của UNESCO thông tin các dòng họ Việt Nam, với nhiều năm nghiên cứu về khoa học dòng họ, gắn với không ít các dòng họ trong việc dịch thuật Hán Nôm, tìm hiểu gia phả nên có thể rút ra: đoàn kết hay không đoàn kết là tiêu chuẩn để giữ vững tạo nên các thành tích, các thắng lợi của dòng họ. Có những dòng họ, kể cả dòng họ lớn còn bị hạn chế, thậm chí mâu thuẫn, không làm được nhiều việc, phải xem lại hai tiếng đoàn kết? Dòng họ Phùng là một dòng họ không lớn, không đông lắm, mà đến nay đã có nhiều thắng lợi, nhất là làm được nhiều đầu sách để đời. Có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu nhất là dòng họ Phùng đã đoàn kết nhất trí từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, mà Trung tướng Phù

Mỗi lần qua phố Bà Triệu, không thể cưỡng được lòng mình, tôi lại vào thăm nhà thơ Ngô Quân Miện. Nhà anh ở khuất...
Bình luận