Vườn hoa Canh Nông và những bức tượng cùng thời

Cứ theo như bản đồ Hà Nội năm 1831 ấn hành dưới triều Minh Mạng rồi đối chiếu với thực địa, thì hoàng thành Hà Nội thời Nguyễn nằm ở phía Tây khu phố cổ và được giới hạn bởi các phố ngày nay là Phan Đình Phùng ở phía Bắc, Lý Nam Đế phía Đông, Trần Phú phía Nam và Hùng Vương phía Tây. Thành có dáng dấp một hình vuông đều đặn, mỗi cạnh dài chừng một cây số.

Sử sách còn chép lại, ngày 25-4-1882, giặc Pháp đem nhiều chiến thuyền neo đậu bến Sông Hồng. Sau nhiều ngày bắn phá rồi chiếm được Hoàng thành Hà Nội. Sau khi chiếm thành chúng cho xây dựng nhiều công trình phòng thủ bổ sung biến tòa Hoàng thành cổ trở thành một pháo đài, một căn cứ quân sự kiên cố và hùng mạnh, đủ sức khống chế các tỉnh phía Bắc Việt Nam thời bấy giờ. Từ Hà Nội chúng hành quân đánh tỏa dần ra các tỉnh lân cận như kiểu tằm ăn lá dâu. Đồng thời với việc mở rộng địa bàn chiếm đóng, giặc Pháp ra sức củng cố bộ máy cai trị, đẩy mạnh công cuộc bình định và từng bước tiến hành công cuộc khai thác tài nguyên trên toàn cõi Việt Nam.

Ở Hà Nội, khoảng từ năm 1894, chính quyền thực dân bắt đầu cho thực thi chương trình qui hoạch cải tạo đô thị cổ và xây dựng khu phố mới trên cơ sở một bản quy hoạch kiến trúc tổng thể, theo đó, một con đường lớn sẽ ra đời khởi đầu từ bờ sông Hồng, với hai công trình văn hóa lớn dự kiến sẽ được xây dựng là Viện Viễn Đông Bác Cổ và Nhà Hát lớn Thành phố.

Vườn hoa Canh Nông và những bức tượng cùng thời - 1

Vào giai đoạn trước 1945, tượng đài Canh Nông là tượng đài bề thế và tinh xảo bậc nhất của Hà Nội.

Con đường chạy tiếp qua bờ phía Nam Hồ Gươm kéo dài về phía Nam Hồ Tây, nơi sẽ được xây dựng những công trình đồ sộ như Phủ Toàn quyền (nay Là Phủ Chủ tịch) và khu công viên thảo mộc muông thú Jardin Botanique (nay là vườn Bách Thảo). Con đường lớn chạy theo hướng Đông Tây đó (chính là trục đường Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi, Điện Biên Phủ… ngày nay) sẽ trở thành trục giao thông chính của Khu Phố Tây sau này, và trong bản quy hoạch tổng thể, trục đường này được phóng tuyến chạy thẳng sẽ cắt chéo một góc phía Nam Hoàng thành Hà Nội.

Để triển khai xây dựng khu phố mới theo bản quy hoạch này, việc đầu tiên chính quyền thực dân đã cho đấu thầu phá tường bao quanh Hoàng thành và nhiều công trình trong thành cổ, lấy gạch đá và vật liệu tháo dỡ để xây mới các công trình khác. Đơn vị trúng thầu phá thành cổ Hà Nội là công ty của cô Tư Hồng, một phụ nữ Việt lấy chồng là quan tư người Pháp có thế lực trong quân đội thực dân lúc bấy giờ. Thành cổ sau khi bị phá, phần lớn diện tích mặt bằng được giải phóng để xây dựng khu phố Tây, phần còn lại gồm cổng thành Cửa Bắc và một số đền đài, lầu tạ trong thành cổ vẫn được giữ lại rồi được cơi nới, xây dựng thêm nhiều công trình xen kẽ làm nơi đóng quân và là trụ sở Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ.

Vườn hoa Canh Nông và những bức tượng cùng thời - 2

Tượng đài Canh Nông tại vườn hoa Canh Nông - Hà Nội (ảnh ST) 

Thành Hà Nội sau khi bị phá dỡ và sắp xếp quy hoạch lại thì diện tích bị thu hẹp chỉ còn già nửa so với trước kia. Theo đó, tường thành phía Đông giữ nguyên vị trí cũ chạy dọc con phố khi đó có tên là phố Tướng Giôpp Rơ (Rue Maréchal Joffre), tức phố Lý Nam Đế ngày nay. Mặt Bắc thành với cổng Chính Bắc Môn nham nhở vết đạn đại bác cũng được giữ nguyên vị trí cũ chạy dọc phố Cacnô (Boulevard Carnot) nay là phố Phan Đình Phùng. Tường thành ở mặt Tây bị phá hoàn toàn rồi tịnh tiến sâu vào trong được xây lại và chạy dọc con phố mới mang tên đại lộ Victo Huygô (Avenue Victor Hugo), nay chính là đường Hoàng Diệu. Còn tường thành mặt phía Nam cũng bị phá hoàn toàn, bị thu hẹp và cắt chéo theo tuyến phố mới có tên là đại lộ Puyginiê (Avenue Puginier) nay là đường Điện Biên Phủ. Như thế là về hình dáng, các mặt tường thành Hà Nội thời thuộc Pháp vẫn giữ nguyên đường nét ngang bằng xổ ngay, duy chỉ có mặt Nam là chạy vát chéo và bị khuyết đi một góc lớn.

Sử sách còn cho biết thêm, ở góc Tây Nam bên trong Hoàng thành thời Nhà Nguyễn có một cái hồ lớn. Đây là nơi hàng ngày quân lính trong thành đem đàn voi trận ra tắm táp, bởi vậy hồ được gọi là Hồ Voi. Đến khi Hoàng thành bị phá tường thì Hồ Voi đã bị san lấp hoàn toàn. Con đường mới Puginier nằm vắt chéo bên trên một phần đất Hồ Voi, phần đất còn lại của hồ mọc lên một vườn hoa có tên Rôbanh (square Robin – Robin là tên của viên thống sứ Bắc Kỳ), và mảnh vườn hoa hình tam giác này được giới hạn bởi các phố có tên ngày nay là Hoàng Diệu, Điện Biên Phủ, và Trần Phú.

Ở góc Tây Nam vườn hoa Rôbanh ngay từ đầu, chính quyền thực dân đã cho dựng một cụm tượng đài lớn đúc bằng đồng. Trung tâm cụm tượng là một bệ cao bằng đá hoa cương trên đó có tượng hai tên lính Pháp, một tên giương súng trường chĩa thẳng về phía cột cờ Hà Nội, tên kia vung tay ném lựu đạn cũng về hướng đó. Quây quanh nhóm tượng đặt trên bệ cao là nhóm tượng đặt dưới bệ đá thấp hình hoa đào bốn cánh, trên đó có tượng bốn nhân vật đại diện cho bốn giai tầng cơ bản của xứ An Nam thời thuộc địa, đó là Sĩ, Nông, Công, Thương.

Sĩ là tượng một ông thầy đồ đang ngồi xếp chân bằng tròn viết chữ với cây bút lông thẳng đứng trên tay, Nông là một anh thợ cày đang gánh chiếc cày chìa vôi đi sau một con trâu, Công là một anh thợ gò nồi với một chiếc nồi đồng điếu dở dang trước mặt, còn Thương là một cô gái áo dài thắt vạt đang gánh đôi quang thúng trên đường tới chợ! Có lẽ tượng người nông dân gánh cày dắt trâu đặt ở phía trước và choán không gian nhiều hơn cả, vì thế mà ngay từ đầu dân ta không dùng cái tên Tây là tượng vườn hoa Rôbanh mà cứ quen gọi cả nhóm tượng đài này là tượng Canh Nông. Và rồi cả cái vườn hoa rất đẹp có cái tên Tây đó cũng không ai nhớ nữa, mà mọi người chỉ quen gọi là vườn hoa Canh Nông! Có điều lạ kỳ là kể từ ngày đó tới nay, sau hàng thế kỷ qua đi và vườn hoa này cũng đã mấy lần chính thức thay tên đổi họ, thế mà cái tên Canh Nông dân gian ban đầu vẫn cứ lưu truyền trong đông đảo dân cư Hà Nội, kể từ những lớp trẻ tuổi cho đến những bậc cao niên sinh ra và lớn lên ở đây qua nhiều thế hệ. Đến hôm nay nếu có việc đi đến mạn Ba Đình bạn cứ thử hỏi thăm vườn hoa Canh Nông nằm ở đâu, chắc là sẽ được nhiều người chỉ dẫn tường tận.

Bức tượng thứ hai cùng thời với bức tượng Canh Nông phải kể đến là bức Nữ thần Tự Do.

Vườn hoa Canh Nông và những bức tượng cùng thời - 3

Tượng Nữ thần Tự do ở vườn hoa Nhà Kèn HN (ảnh ST)

Lịch sử văn hóa thế giới còn ghi lại, vào dịp kỷ niệm 100 năm bản Tuyên Ngôn Độc Lập nước Mỹ, nhân dân Pháp đã tặng nước Mỹ một bức tượng đồng khổng lồ mang tên Nữ Thần Tự Do. Tượng cao 46 mét, nặng 204 tấn, bệ đá chân tượng cao 45,7 mét. Người Mỹ trang trọng đặt bức tượng đài trên một hòn đảo nhỏ hướng ra hải cảng New York.

Khi trao tặng tượng Nữ thần Tự do cho nước Mỹ, người Pháp đã giữ lại cho mình một phiên bản nhỏ cũng bằng đồng cao 11 mét. Phiên bản này được đặt trên phần nổi lên của trụ móng chân một cây cầu bắc ngang sông Seine ở Paris. Hơn một thế kỷ trôi qua, bức tượng này vẫn đứng nguyên tại vị trí ban đầu. Nếu có dịp đi dọc bờ sông Seine đến gần chỗ tháp Eiffel, bạn sẽ nhận ra ngay bức tượng nổi lên giữa dòng sông này.

Ngoài ra còn một phiên bản thứ hai nhỏ hơn nữa, chỉ cao 2,85 mét cũng bằng đồng. Phiên bản này tháng 3-1887 đã được đưa sang triển lãm tại Hội chợ Công Thương do chính quyền Bảo hộ Pháp đứng ra tổ chức lần đầu tiên tại khu vực Trường Thi Hà Nội. Triển lãm kéo dài 1 tháng, sau khi kết thúc, chính quyền cho dựng bức tượng Nữ thần Tự do (mà người dân Hà Nội khi đó quen gọi là tượng Đầm Xòe) tại vườn hoa Nhà Kèn đối diện với Nhà Băng Đông Dương, nay là trụ sở Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Sở dĩ dân Hà Nội quen gọi là vườn hoa Nhà Kèn vì ở giữa vườn hoa có xây một nhà bát giác lợp ngói, vào những ngày nghỉ, đoàn quân nhạc Pháp thường đến đây biểu diễn cho dân xem tự do kiểu như âm nhạc đường phố).

Ngày 14-7-1890, chính quyền Bảo hộ quyết định chuyển bức tượng Đầm Xòe đặt lên nóc Tháp rùa Hồ Gươm, thay thế vào đó là bức tượng Paul Bert, viên toàn quyền đầu tiên của Pháp tại Đông Dương. Và cũng từ đây vườn hoa này chính thức mang tên vườn hoa Paul Bert, nhưng dân ta vẫn quen gọi là vườn hoa Nhà Kèn. Trước sức ép phản đối của người dân, chính quyền bảo hộ lại một lần nữa phải chuyển tượng Đầm Xòe từ nóc Tháp Rùa về đặt tại vườn hoa Bách Việt (nay là vườn hoa Cửa Nam).

Một bức tượng mang dấu ấn thực dân khác được dựng lên ở Hà Nội cùng thời gian này là bức tượng Jean Dupuis ở bến sông Hà Nội, nay là Cảng Phà Đen bên bờ Sông Hồng. Jean Dupuis vốn là một thương nhân buôn vũ khí, một tên gián điệp nhà nghề nhưng núp dưới danh hiệu là một nhà du lịch. Sau khi đi du lịch khám phá Trung Quốc, khoảng năm 1871-1872, Dupuis xin phép vào Việt Nam du lịch các tỉnh vùng châu thổ Sông Hồng.

Năm 1882 khi quân Pháp cho hạm đội hải quân neo đậu ở cảng Sông Hồng bắn phá thành Hà Nội rồi tấn công đánh chiếm Hoàng thành, thì Dupuis có mặt trong đoàn quân ấy với tư cách là người tổng phụ trách hậu cần vũ khí súng đạn và sửa chữa tàu thuyền cũng như quân trang quân dụng. Để ghi nhận công trạng của tên gián điệp thực dân cáo già này, chính quyền Bảo hộ đã cho dựng một bức phù điêu Jean Dupuis trên Bến Phà Đen, ngay nơi pháo hạm Pháp neo đậu bắn phá thành Hà Nội năm xưa.  

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp tháng Ba năm 1945, phát xít Nhật dựng nên ở Việt Nam một chính quyền thân Nhật do Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Thị trưởng thành phố Hà Nội khi ấy là bác sĩ Trần Văn Lai. Bác sĩ là một người yêu nước và có tư tưởng tiến bộ, một trong những công việc đầu tiên trên cương vị thị trưởng là ông đã cho kéo đổ phá dỡ tất cả các bức tượng nơi công cộng mang dấu ấn chế độ thực dân Pháp. Thế là chỉ trong một thời gian ngắn hàng loạt bức tượng như tượng Nữ thần Tự Do vườn hoa Cửa Nam, tượng toàn quyền Paul Bert tại vườn hoa Nhà Kèn, tượng Jean Dupuis ở cảng Phà Đen…, và tất nhiên, tượng Canh Nông ở vườn hoa Canh Nông cũng cùng chung một số phận, tất cả đều lần lượt bị kéo đổ. Cũng trong khoảng thời gian rất ngắn đó, hầu hết các con phố ở Hà Nội mang tên Pháp đều được thay bằng tên các danh nhân và địa danh lịch sử nổi tiếng của Việt Nam.

Cũng nên kể lại một điều có ý nghĩa như biểu hiện của thuyết Luân Hồi trong Đạo Phật, về những bức tượng cùng thời mang dấu ấn thực dân bị nhân dân Hà Nội kéo đổ trong những ngày sục sôi ấy.

Những bức tượng này tuy được ra đời với những trích ngang lý lịch khác nhau, những hoàn cảnh và xuất xứ khác nhau, nhưng chúng đều có chung một sự kết thúc. Sau khi bị kéo đổ và đập nát, những phần đồng nát của các bức tượng đều được chất vào kho của Sở Lục Lộ Hà Nội (có chức năng giống như Sở Giao Thông Công Chính ngày nay).

Cuối năm 1949 trong thời Hà Nội bị tạm chiếm, Giáo hội Phật giáo Hà Nội đã đứng lên tổ chức cuộc vận động đúc một bức tượng khổng lồ phật A Di Đà đặt trong chùa Thần Quang. Hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo hội, nhân dân nội ngoại thành và nhiều địa phương đã đóng góp những đồ dùng hoặc vật liệu bằng đồng để đúc tượng phật. Cuộc vận động kéo dài hàng năm rồi nhưng lượng đồng nguyên liệu vẫn chưa đủ để khởi công. Trước tình hình đó, thị trưởng Hà Nội khi đó là ông Thẩm Hoàng Tín đã quyết định cho mở kho Sở Lục Lộ để bàn giao cho Giáo Hội tất cả số đồng nát từ những bức tượng năm xưa. Công việc đúc tượng phật A Di Đà được khởi công và đến giữa năm 1952 thì hoàn thành. Bức tượng đồng Phật ngồi này cao 3,95 mét không kể bệ, nặng 10 tấn tọa lạc tại gian chính điện chùa Thần Quang số 44 phố Ngũ Xã cạnh hồ Trúc Bạch Hà Nội ngày nay.

Vườn hoa Rôbanh khi ấy được đổi thành vườn hoa Chi Lăng, để ghi nhớ chiến công oanh liệt của nghĩa quân Lê Lợi chém tướng Liễu Thăng tại ải Chi Lăng ngày 10-10-1427. Còn nhóm tượng đài Canh Nông tuy đã bị kéo đổ, nhưng tất cả hệ thống chân bệ tượng bằng đá hoa cương trắng vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ cho mãi tới năm 1982. Và trong khoảng thời gian ấy, nếu có ai đi tản bộ dọc đường Hoàng Diệu, khi đến chỗ đối diện với cổng Đại sứ quán Trung  Quốc ở vỉa hè bên kia đường, chỉ cần bước lên năm bậc đá xám là ta đã có thể đứng cạnh bệ đá chân tượng đài Canh Nông, vết tích còn lại của một thời quá vãng.

Để tỏ lòng kính trọng và biết ơn đối với V. I. Lênin, vị lãnh tụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới, Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết định dựng tượng đài Lenin tại vườn hoa Chi Lăng với sự giúp đỡ của  Nhà nước Liên Xô. Và ngày 26-3-1982 nhân dịp khai mạc đại hội lần thứ V của Đảng Cộng Sản Việt Nam, lễ đặt hòn đá tượng trưng bức tượng Lênin đã được tổ chức hết sức trọng thể tại vườn hoa này. Tới dự, ngoài một số vị lãnh đạo Đảng Nhà nước Việt Nam còn có đoàn đại biểu Đảng Cộng Sản Liên Xô do M. Gorbachốp, lúc đó mới là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Liên Xô dẫn đầu tới dự.

Vườn hoa Canh Nông và những bức tượng cùng thời - 4

Tượng đài Lê Nin tại công viên Lê Nin ngày nay.

Bức tượng Lênin đúc bằng đồng, cao 5,20 mét đặt trên bệ đá hoa cương màu đen cao 2,70 mét. Tượng được đặt ở vị trí gần sát chỗ nhóm tượng đài Canh Nông khi xưa. Và rồi đến ngày 20-8-1975, công trình được chính thức khánh thành ở Hà Nội. Cùng với việc khánh thành tượng đài Lênin, vườn hoa Chi Lăng cũng được chính thức đổi ra thành công viên V.I. Lênin.

Đó là vườn hoa mà người dân ở đây quen gọi là vườn hoa Canh Nông, một góc khuyết của ngôi thành cổ Hà Nội khi xưa, nơi đã trải qua biết bao vần vũ nắng mưa thời đại, đã chứng kiến biết bao thăng trầm lịch sử, biết bao vật đổi sao dời, mà vẫn lớn lên, nguyên vẹn cùng năm tháng, tiếp tục hoàn thiện mình theo thời gian, tự loại bỏ tất cả những dư thừa dị biệt, chỉ để sàng lọc lại, trầm tích lại những gì là tinh túy nhất, văn hiến nhất mà thôi.

Nguyễn Đắc Như

Hà Tiên miền đất mở cõi
Hà Tiên miền đất mở cõi

Nhìn trên bản đồ Việt Nam thì Hà Tiên là một cái chấm nhỏ ven biển cuối trời phương Nam giáp với Campuchia, trong khi đó...

Tin liên quan

Tin mới nhất

Kỷ niệm 20 năm Thành lập Hội đồng Dòng họ Hoàng Huỳnh Việt Nam và Đại Hội toàn quốc nhiệm kỳ 2024-2029

Kỷ niệm 20 năm Thành lập Hội đồng Dòng họ Hoàng Huỳnh Việt Nam và Đại Hội toàn quốc nhiệm kỳ 2024-2029

Họ Hoàng - Huỳnh là một dòng họ lớn của Việt Nam với hơn 5 triệu người, chiếm hơn 5% dân số. Họ Hoàng–Huỳnh có lịch sử lâu đời. Thời Vua Hùng, An Dương Vương có danh tướng Hoàng Quý Minh. Thời Hai Bà Trưng có danh tướng Hoàng Đạo, nữ tướng Hoàng Thiều Hoa, … Hiện nay, nhiều nơi thờ danh tướng Hoàng Quý Minh như Đình làng Phụng Pháp ở Tân Phượng, Tân Mỹ, TP. Bắc Giang;… Đình Hạ Hi